TRIỆT-THOÁI RA KHỎI
CĂN-CỨ HỎA-LỰC 30
Mười bảy giờ, chúng tôi chính thức rời khỏi Căn-Cứ Hỏa-Lực 30.
Thiếu-tá Lê Văn Mạnh và Đại-úy Trần Công Hạnh bảo tôi:
– Anh cho tất cả thương binh cùng số binh sĩ có trách nhiệm khiêng cáng đi giữa và đi trước Bộ Chỉ–huy Tiểu-đoàn. Số anh em còn lại đi sau BCH. Tôi biết các anh không quen chiến đấu với AR15, anh hãy cho lệnh binh sĩ của anh, khi nghe súng nổ thì nằm tại chỗ để bọn tôi đánh, chứ đừng chạy lộn xộn nguy hiểm. Chúng tôi sẽ bảo vệ cho các anh…
Lời nói của quý vị ấy, thật sự đã làm cho tôi cảm động vô cùng. Tôi thầm nghĩ, kết quả cảm tình này hẳn là được tạo bởi thiện chí của Pháo-đội tôi, cộng tác chặt chẽ với Tiểu-đoàn 2 Dù trong suốt một tháng qua – từ các cuộc yểm trợ chính xác liên tục bằng đại bác cho đến những lúc đâu lưng đấu cật chiến đấu tử thủ Căn-Cứ Hỏa-Lực 30, đã được BCH/TĐ2 Dù ghi nhận với thiện cảm chân thật.
Tôi thi hành đúng theo kế hoạch của Thiếu-tá Mạnh chỉ thị. Tuy nhiên, vì quá gầy yếu, một chân bị Rhumatisme đang hành, tôi cố gắng theo cho kịp đã bở hơi tai, còn sức đâu tới lui để kiểm soát nhân viên! Lân, thì tay đeo trước ngực, tay chống gậy, khập khà khập khểnh hướng dẫn toán bị thương… Các Pháo-thủ khỏe nhất luân phiên 5, 10 phút thay nhau khiêng B2 Xề. Cáng khiêng làm bằng cây rừng còn tươi. Cái ponchot được cột chéo hai đầu lên cáng để khoảng giữa cho Xề nằm. Trông thật đau lòng đến ứa nước mắt!
Vượt qua khỏi phòng tuyến, đoàn quân triệt thoái thẳng hướng 4200 ly giác. Mùi hôi thúi từ các tử thi Cộng quân xông lên nồng nặc… Suốt dọc lộ trình 1000 thước, xác Cộng quân đầy dẫy. Có xác nằm co quắp, có xác cháy đen, có xác bị kiến rừng bu quanh khắp vết thương đã sình thối. Ruồi bọ tha hồ rửa thịt! Tôi định bụng sẽ không nhìn đến tử thi, nhưng có nhiều tử thi nằm ngay trên lộ trình di chuyển, bắt buộc tôi phải nhìn để tránh!… Hai tử thi đặc biệt mà tôi gặp, có lẽ không bao giờ tôi quên được: Theo triền đồi, hắn quỳ hai gối và chắp hai tay, cánh tay ngoài xuôi theo triền đồi, trán gục xuống trên hai bàn tay xòe ra tự bao giờ… đầu đạn M79 tống vào hậu môn, dừng lại ở bên trong không nổ, để lộ phần sau nom rõ mồn một. Một xác khác nằm ngữa, tay chân duỗi thẳng, thân thể bị cháy đen như than, nhưng riêng trán bên phải, một mảng thịt lớn bị tróc, để lộ xương trắng hếu!
Thật sự chúng tôi không còn biết sợ là gì nữa! Chỉ trông rời khỏi căn-cứ để tránh một mục tiêu quá lộ liễu, mà chúng tôi đã phải trân người trong 7 ngày tròn chịu pháo kích khủng khiếp, tấn công từng giây từng phút… hồi hộp không biết bao giờ «Chúa» gọi!
Thỉnh thoảng đám ruồi nhặng bám trên tử thi bay tung lên – khi chúng tôi đi qua – tử khí được dịp bốc lên phả vào mũi mọi người, cơ hồ làm nghẹt cả khí quản! Phần mệt không đủ mũi thở, phần không còn đường nào khác để tránh… vì xác địch chồng chất quanh khắp căn-cứ, chỗ nào cũng có, và lúc toán đi đầu mở đường đã tạo ra một đường mòn nào thì người kế tiếp cứ nhìn đấy mà bước theo. Bởi vậy, chẳng còn ai buồn đưa tay lên che mũi!
Di chuyển được 30 phút, trước mặt chúng tôi bụi đất mịt mù tung lên, sau những ánh chớp, lửa lóe sáng cả một vùng… tiếng nổ ầm ầm kéo dài như tiếng sấm rền vang… cứ thế nối tiếp từ đằng xa tiến dần… tiến dần… và ngừng lại, khi cách chúng tôi khoảng 700, 800 thước!… B–52 dội bom… …
Đại-úy Hạnh quay ra sau nhìn tôi bảo:
– May quá! Bọn mình đi sớm vài tiếng đồng hồ chắc tiêu hết!
– Chứ Đại-úy không liên lạc với Bộ Tư Lệnh sao? – Tôi hỏi.
– Có chứ! Nhưng bất ngờ làm sao biết được!
Tôi rùng mình. Giai thoại «Đồi Ma», «Suối Máu» ở Hạ Lào thoáng nhanh qua trí tôi!
«Đồi Ma», nơi B–52 tiêu diệt gọn một Trung–đoàn Cộng quân trong lúc đang di chuyển.
«Suối Máu» nơi không ngừng loang vết máu vì các cuộc phục kích!… Biết đâu –Tôi nghĩ dại – Cái rủi ro lại chẳng đến với chúng tôi?
Trong lúc đó, nhìn lại vị trí trên đỉnh 727 thước, đạn pháo kích của địch vẫn rót đều vào căn-cứ! Có lẽ chúng không nhìn thấy chúng tôi triệt thoái vì bức màn khói và vì lo nấp hầm để tránh kế hoạch «Du Lu 1» do tác xạ hỗ tương của các đơn vị Pháo-binh bạn.
…Đường đi càng lúc càng dốc, dần dần tôi theo không kịp BCH/TĐ Dù nữa. Chân tôi đau và sưng tấy ở đầu gối – nơi Rhumatisme xuất hiện từ 2 hôm nay. Tôi ngồi xuống nghỉ tạm, nuốt 2 viên Anacine cho đỡ nhức! Cùng ngồi với tôi, có một binh sĩ Dù bị thương ở chân, anh ta người miền Trung, khoảng 18, 19 tuổi. Anh hỏi tôi:
– Đại-úy bị thương hay sao mà đi khập khễnh thế?
– Không, tôi bị thương xoàng không ăn nhằm gì, nhưng bị sưng khớp xương đau lắm…
– Thế Đại-úy cầm cây gậy của tôi để đi cho kịp…
Vừa nói, anh vừa trao cây gậy cho tôi. Tôi ngạc nhiên quá, vì chính anh cũng đi khập khễnh không hơn gì tôi và chính anh bị thương ở chân, y tá băng gồ lên chứng tỏ vết thương không phải là nhẹ. Tôi bảo anh:
– Không được, phải để anh chống mà đi. Anh bị thương với cái băng to như thế, tôi chắc không nhẹ đâu, anh cần phải dưỡng cái chân để đi xa nữa chứ.
Tôi trao gậy lại cho anh, nhưng nhất định anh không chịu nhận.
– Đại-úy cứ dùng để đi cho kịp BCH/TĐ.
Rồi anh tâm sự:
– Tôi bị thương từ bốn hôm nay, không tải thương được! Lúc sáng có lệnh triệt thoái, tôi theo Đại-đội bên tiền đồn trở về, những tưởng sẽ nghỉ đỡ một đêm, không ngờ lại đi ngay… mệt quá!
– Anh ở tiền đồn mới về à? Chết chữa! Thế anh cần phải chống gậy mà đi chứ!
Cuối cùng anh vẫn đay đảy từ chối! Tôi cảm động, thầm nghĩ có lẽ tôi tiều tụy lắm mà chính tôi không biết, đã khơi nơi lòng anh niềm trắc ẩn chân thật đối với tôi… Thế rồi anh và tôi tiếp tục lên đường.
Nhờ cây gậy «phép» tôi lết được nhanh hơn đôi tí. Nhiều lúc tôi phải ngồi xuống, chỏi hai tay sau lưng, trượt lên lau lách… với tất cả cố gắng… nhưng vẫn không làm sao bắt kịp BCH/TĐ.
Trên đường di chuyển chiều nay, một lần nữa tôi khâm phục cách tổ chức chiến đấu của Tiểu-đoàn 2 Dù… Dẫu cho tình thế khó khăn đến mấy, tất cả các Đại-đội đều giữ đúng đội hình quả trám, bảo vệ trọn vẹn BCH/TĐ ở giữa – và, thi hành lệnh của Thiếu-tá Mạnh thật nghiêm chỉnh.
Nhân dịp này, tôi được biết Thiếu-tá cũng giàu tình cảm lắm. Chính Thiếu-tá Mạnh đã không cầm được nước mắt khi ra lệnh mai táng một chiến sĩ Dù tại tiền đồn, vì không có phương tiện triệt thoái, trước khi Thiếu-tá trở về BCH/TĐ cách đây mấy hôm… Niềm kính phục Thiếu-tá lan tỏa trong lòng mọi người, nhất là cử chỉ ưu ái với lời nói nhỏ nhẹ của Thiếu-tá Mạnh trong bất cứ một tiếp xúc nào với Sĩ-quan, hạ Sĩ-quan và Binh–sĩ, cũng như sự cư xử với đơn vị bạn… cụ thể là với chúng tôi…
Lân tuy lớn con và mạnh hơn tôi nhiều, nhưng giờ đây mang thương tích ở tay, ở chân, nên không còn phong độ như trước. Càng đi, càng tụt dần về sau với tôi… để cuối cùng Lân lại dìu tôi, tôi dìu Lân đi sau rốt!
…Ánh trăng lưỡi liềm lơ lửng trên nền trời trong lờ mờ soi sáng khắp đó đây. Hơi mát của sương đêm và không khí núi tỏa ra vẫn không chận được những giọt mồ hôi đang thấm ướt bộ quân phục. Bi-đông tôi đã ráo cạn, không còn một giọt nước! Cổ tôi rát bỏng, nước bọt cô đọng lại, tôi khát, khát lắm!
Mãi đến 21g00, chúng tôi đến gần suối. Tiếng róc rách của nước len mình qua các tảng đá, tạo nên một âm thanh khả ái quá! Trí tôi tưởng tượng mạnh hơn bao giờ hết – một cuộc giải khát ngon hơn cả ngồi ở phòng trà có máy lạnh!… Tôi thèm đến nỗi ước gì có «đôi hia 7 dặm» mà tôi được đọc trong các chuyện thần thoại… để bước nhanh đến suối!…
Khổ nỗi, trước khi xuống suối, chúng tôi phải qua một cái bực thật thẳng, khó khăn. Tôi loay hoay xoay trở vài phút, rồi nhờ người trước đỡ, kẻ sau níu, tôi mới xuống được…
Vội vàng, tôi quên cả việc cám ơn anh em, nhào vội ra giữa giòng suối, khoát lên trên mặt nước vài cái rồi hụp đầu xuống tu một hơi dài không thở!… Tiếp đấy, tôi vốc nước tạt vào đầu, vào cổ để mặt nước chảy thành dòng xuống ngực, xuống lưng hòa với mồ hôi! Làm cho áo tôi vốn dĩ đã ướt vì mồ hôi, bây giờ lại ướt thêm vì nước suối!
Hơi mát bốc lên từ mặt nước hòa với cái lạnh của nước phả vào người, tôi cảm thấy sảng khoái lạ thường… Cơn mệt dần dần tan đi. Xong, tôi tháo bi-đông đeo bên thắt lưng, múc đầy nước cài thật kỹ đặt vào chỗ cũ.
Nhìn lại, cái cáng khiêng B2 Xề còn nằm trên bục đất… anh em đang tìm cách chuyển xuống suối! Tôi đi ngược lại bảo hai Pháo-thủ phụ trách:
– Anh em cố gắng đưa B2 Xề qua suối. Có lẽ đi một đoạn nữa là dừng. Bây giờ đã 9g00 tối rồi, chắc phải đóng tạm trên đồi đối diện với chúng mình đây…
Hạ–sĩ Dũng và B2 Bân vừa vuốt mồ hôi chảy dòng trên mặt vừa trả lời:
– Khổ quá Đại-úy ơi! Bọn em mệt ngất người! Anh Xề ảnh nặng quá trời! Bọn em ráng lắm rồi… không biết có khiêng nổi nữa không! Khi nãy trợt lên trợt xuống, nhiều lúc lật cả bàn chân thiếu điều muốn gãy… mà phải ráng giữ cho khỏi rơi cái cáng, chỏi rời cả tay…
– Tôi hiểu rõ nỗi vất vả của anh em lắm. Các anh em thương nhau như thế này, không bao giờ tôi quên đâu. Tôi hứa lúc về, tôi sẽ đề nghị tưởng thưởng xứng đáng để đền bù lúc nguy hiểm và vất vả này của anh em.
…Bên kia bờ suối… B2 Quốc với vết thương trên tay, đang dìu B2 Phương lên dốc!
Đi một mạch hơn 4 tiếng đồng hồ, chúng tôi mới xuống chân đồi giới hạn bởi con suối này!
Sau khi dặn dò các Pháo-thủ khiêng cáng, tôi tiếp tục nối đuôi đồng đội tiến lên ngọn đồi trước mặt, đồng thời, Pháo-đội B ở A–Lưới vẫn tiếp tục tác xạ hai bên trục tiến quân không quá 500 đến 700 thước. Đại-úy Hạnh đích thân vào máy xin các tác xạ này. Tiếng đại bác hú rợn người qua đầu, nổ ầm ầm rền cả núi.
Tuy trong người cảm thấy khỏe nhờ con suối nhưng cái chân lại nhức nhối không tả được. Tôi lếch thếch theo anh em trong đau đớn cùng cực… Đường càng lúc càng khó đi vì dốc quá đứng và dễ bị lạc. Chúng tôi bắt đầu gặp đường mòn của Cộng quân.
Khi BCH/TĐ dừng quân và phân phối vị trí bố phòng cho các Đại-đội đâu vào đấy, tôi mới lò dò đến!
Thiếu-tá Mạnh chỉ cho tôi một khoảnh đất kế cận và bảo:
– Anh thu xếp cho Pháo-đội anh nghỉ chỗ này, ráng mà đào hầm kẻo tối nó đột kích, pháo kích không có chỗ nấp.
Tôi nhận lệnh, gọi tất cả anh em lại một chỗ, nhưng nửa giờ sau mới tập trung được. Tuy vậy, vẫn thiếu 3 người: B2 Xề và hai Pháo-thủ khiêng anh ta.
TS1 Lục tiến đến tôi, báo rằng: Anh em còn đi sau một số… Nhưng 15 phút qua vẫn không thấy! Bỗng HS Dũng từ dưới đồi vượt lên báo cáo cho tôi:
– Thưa Đại-úy, hai đứa em đi lạc qua cánh trái bị cái dốc thẳng đứng không thể nào lên được. Nhìn đằng trước, đằng sau, không còn một ai nữa. Bọn em đặt cáng xuống đường, bảo anh Xề nằm yên để bọn em lên trình chỗ đóng quân, trình Đại-úy tăng cường cho vài người xuống khiêng thế!
Tôi ra lệnh cho TS1 Lục ngay:
– Anh cho 10 người đi gấp kẻo khuya. Tôi sẽ can thiệp cho Thiếu-tá chừa đường cho anh em đi về… Phải mang theo súng cá nhân, nón sắt, áo giáp…
Tuy ra lệnh cho TS1 Lục như vậy nhưng tôi cũng đi theo một đoạn đường đến tận vòng đai ngoài cùng, nhờ một binh sĩ Dù hướng dẫn, vì anh ta bảo anh ta nhớ đường. Tôi trao cho anh 1000 đồng, nhưng anh không cầm, lại còn nhăn tôi:
– Đại-úy đừng làm thế. Giúp được gì cho Đại-úy và các anh em Pháo-binh là chúng tôi giúp ngay chứ tiền bạc gì!
– Thành thật cám ơn anh, nhưng tôi nghĩ, ít ra anh cho phép tôi được tỏ lòng biết ơn của cả Pháo-đội – mà, tôi là đại diện. Nếu không thì đây là phần thưởng riêng của tôi đối với anh vậy.
Cuối cùng, nhất định anh không nhận.
Thế rồi, TS1 Lục dẫn 10 binh sĩ «xuống núi» do anh ta hướng đạo.
Trở về chỗ Lân ngồi, tôi đợi tin!
Nhờ B1 Huy, B2 Một phát bằng một khoảng đất vừa đủ cho tôi và Lân ngã lưng. Không mền… không chiếu… không tất cả!.. Đến một cái “sac” nhỏ đeo vai đựng bao gạo sấy và hộp thịt ba lát cũng đã rơi mất tự bao giờ! Tôi chỉ còn vỏn vẹn bộ quân phục mặc trong người với cái nón sắt, áo giáp và khẩu colt đeo bên hông!
Nằm cạnh Lân, xuyên qua cành cây kẻ lá, những vì sao lấp lánh trên trời cao đập vào mắt tôi… Tôi bắt đầu nghĩ mông lung đủ chuyện… Tôi bảo Lân:
– Lân ơi! Anh nghĩ thế nào về phản ứng bảo vệ Căn-Cứ Hỏa-Lực 30 của bọn mình với anh em Dù?
– Mình thắng lợi lớn thật, nhưng chúng pháo kích không chịu nổi!…
– Tôi cũng nghĩ như anh. Cứ nhìn số xác Việt cộng chết cả một vùng rộng lớn khi chiều, tôi chắc các mặt Bắc, Đông và Tây của căn-cứ hẳn cũng nhiều như thế… vì lúc tấn công bọn mình, chúng hô xung phong cả bốn mặt, nhất là đêm 26 rạng 27… thì, chẳng lẽ bọn chúng chỉ chết ở một mặt này thôi à!
– Thì đấy, Đại-úy không để ý sao? Sau mỗi trận đánh, anh em TĐ2 Dù đếm xác và thu chiến lợi phẩm toàn là bên trong và ngay trên hàng rào phòng thủ… Tôi thấy các báo cáo của TĐ2 Dù gởi về Bộ Tư Lệnh ở Khe Sanh chắc là không được chính xác, bỏ sót quá nhiều… tối thiểu mỗi trận chúng chết cũng vài ba trăm là ít. Phần thả bom, rocket, phần các Pháo-đội yểm trợ hổ tương, mình trực xạ, phần thì lựu đạn M79 của Dù, cả chục lần làm tắt tiếng xung phong của chúng… mình đồng da sắt chịu cũng không nổi nữa là!…
– Tiếc vì không thể kiểm kê hết xác và thu cho hết chiến lợi phẩm! Nhưng nghĩ cho cùng, khó làm gì hơn được. Chung quanh triền đồi bọn chúng đã đào nhiều hầm ếch như thế, dại gì anh em đi thu chiến lợi phẩm ở bên ngoài để bị bắn sẻ. Tôi thấy Dù tác chiến hay lại cẩn thận. Lúc đáng hy sinh thì không tiếc mạng sống, nhưng không phải lúc đổ xương máu anh em lại dò dẫm từng bước. Quả thật anh em họ đã có một kinh nghiệm chiến đấu đáng kể. Tôi nghĩ, nếu về được hậu cứ, chắc gì mình thuật lại mà có người tin sự tổn thất của chúng lớn lao như chính bọn mình đã thấy!
– Có thể lắm! Chỉ những người trực tiếp chiến đấu tại đây như bọn mình có thấy tận mắt mới tin đó là sự thật.
– Được phối hợp tác chiến với Tiểu-đoàn 2 Dù kỳ này, thật là may mắn cho bọn mình đủ thứ… lại học hỏi được nhiều kinh nghiệm…
…TS1 Lục trở về, vẻ mặt hơ hãi, báo cáo tiếng được tiếng mất:
– Thưa Đại-úy… bọn tôi xuống… tới nơi… chỉ còn chiếc cáng…với mấy sợi dây cột ponchot… và một gùi băng… tôi phân tán anh em… tìm chung quanh nhưng không thấy… gọi cũng không nghe lên tiếng!… Không biết anh Xề bỏ đi đâu mà lạ thế?… Khó hiểu quá… hai mắt của ảnh bị băng kín, dầu có gỡ băng cũng chưa chắc thấy đường… vì vết thương ở hai mắt khá nặng…
Tôi điếng cả người! Hồi tưởng trước đây một tiếng đồng hồ, tôi đứng cạnh cáng ở bên kia bờ suối!
Tôi gay gắt hỏi HS Dũng:
– Khi nãy mày để Xề nằm đợi, mày đã bảo gì với nó?
– Thưa Đại-úy, em dặn kỹ hai ba lần bảo anh cứ nằm yên tại chỗ để em lên nơi đóng quân, trình với Đại-úy xin người xuống tiếp tay… Em thề với Đại-úy em có dặn kỹ.
Tôi long cả mắt, quát ầm lên và không cầm được nước mắt, khi nghĩ đến nỗi cực khổ không tả xiết của anh em, vì Xề mà khiêng hơn 4 tiếng đồng hồ, cùng những đau đớn hành hạ từ những vết thương trên thân thể Xề.
Thiếu-tá Mạnh nghe tôi to tiếng với nhân viên, gọi tôi lại bảo:
– Anh giải quyết nho nhỏ, chỗ này không yên đâu, bây giờ khuya rồi, anh nên nghỉ đi. Sớm mai cho anh em xuống tìm lại một lần nữa xem sao… Khoảng 7 giờ hơn tôi mới cho lệnh di chuyển…
Tôi cám ơn Thiếu-tá, trở lại chỗ Lân nằm, tôi bảo Lân:
– Sức khỏe tôi quá kém! Phải chi tôi không bị Rhumatisme hành ở chân thì đâu đến như thế này… Trời! Khổ tôi quá!… Bây giờ không biết B2 Xề nó bỏ đi đâu?!…
TS1 Lục lại bên tôi trình bày cặn kẽ:
– Thưa Đại-úy, chính tôi kiếm cây cột cáng khi chiều. Tôi cột cái ponchot bằng dây thép niềng thùng đạn 105 ly. Tôi dùng kềm quấn chặt. Vì biết Xề nó nặng lắm, có thể tuột ponchot! Lạ quá, bây giờ ponchot cũng không còn, mà tay đâu thằng Xề nó mở được dây thép. Chân nó cũng bị thương nặng cơ mà… Tôi nghi Việt cộng đi sau mình bắt nó quá!…
Lân tiếp:
– Tôi nghĩ đây là trường hợp bất khả kháng, Đại-úy phải bình tĩnh hơn để giải quyết. Anh em ai cũng biết Đại-úy lo sốt cả ruột. Còn trách mấy anh em khiêng cáng cũng tội nghiệp. Đường dốc như bức thành, nhiều chỗ cao hơn đầu… Các Đại-đội Dù quen di chuyển bằng bộ, tôi tưởng anh em theo kịp thế này là đáng khen rồi. Còn 12 thương binh của mình nữa, Đại-úy còn biết bao nhiêu việc phải lo! Bây giờ đã khuya, làm ăn gì được nữa! Đại-úy cứ tạm nghỉ, để sáng mai bảo anh em đi tìm lại rồi hẳn hay…
Lân khuyên tôi rất phải – chỉ có chúng tôi – những người trong cuộc mới rõ nỗi thống khổ hôm nay. Nhưng lòng tôi thật rối như tơ vò, chẳng yên tí nào.
Tôi thao thức, trằn trọc trên đá sỏi… Hơi lạnh len vào từng thớ thịt, từng khớp xương, làm cho chân tôi nhức không chịu nổi. Tôi có cảm tưởng như ai đóng đinh 10 phân vào đầu gối, và cái búa gõ liên tục vào đầu đinh! Xương bàn tọa ở 2 bên ghè lên đá sỏi đau ê cả người.
Thân tôi chỉ còn da bọc xương. Tôi lần trong túi quần lấy khăn tay xếp nhiều lớp, kê vào chỗ tiếp giáp giữa xương và đá sỏi… cố dỗ giấc ngủ, nhưng vẫn không ngủ được.
Lân nằm cạnh tôi, vì mất máu bởi các vết thương lạnh run cầm cập không hơn gì tôi. Hai đứa lại nằm sát vào nhau, ôm nhau gối đầu trên áo giáp thao thức trắng đêm!
…Trời chưa sáng rõ, tôi đã đánh thức TS1 Lục, TS Đổng và các anh em đi tìm B2 Xề… Lần này, TS1 Lục hướng dẫn 20 Pháo-thủ, trang bị súng AR15 và M79 xuống chỗ cũ lục soát thật kỹ. Vẫn không tìm ra B2 Xề. Cả toán lại tiến sâu xuống suối, và ngạc nhiên thấy cái bóp của B2 Xề vứt bên này suối!? Đoạn đường từ suối lên chỗ Xề nằm đâu có gần. Nhất là đối với một người bị thương nặng như Xề! Lúc qua suối, Xề còn được khiêng trên cáng, cái bóp ở túi quần làm sao có thể rơi ra được? Một lần nữa, anh em chia nhau cố gắng tìm.
Sau 30 phút vẫn không dò ra một tí vết tích nào khác, TS1 Lục đành phải hướng dẫn anh em về, tường thuật tất cả chi tiết trên và giao cho tôi cái bóp của Xề.
Đau khổ hơn bao giờ cả, tôi đăm ra cau có, gắt gỏng với tất cả mọi người. Thật vô lý! Lân nhăn tôi hoài, khuyên tôi mãi, nhưng hình bóng B2 Xề vẫn ám ảnh ray rứt, làm cho tôi không thể quên được.
7g30 chúng tôi tiếp tục lên đường, trẩy theo hướng 2400 ly giác.
Mặt trời càng lên cao, ánh nắng càng gay gắt phút chốc mồ hôi chảy thấm cả áo giáp… Trước sau, tôi uống hết 3 bi-đông nước mà vẫn cứ khát. Hầu như các binh sĩ đi gần tôi đều được tôi «chiếu cố» xin nước! Anh em khuyên tôi không nên uống nước nhiều, đi mệt. Nhưng tôi không thể chịu được cơn khát xé nát cổ họng mặc dầu tôi biết uống vào thì mồ hôi toát ra dầm dề. Ấy vậy mà không tài nào tôi nhịn được.
Dọc theo lộ trình sáng nay, chúng tôi đi qua một ngã tư đường mòn, chằng chịt dây điện thoại mới giăng, móc trên cây rừng ở hai bên đường.
Có lẽ Cộng quân thiết lập hệ thống liên lạc hữu tuyến này, ngay sau khi chúng tôi chiếm đóng Căn-Cứ Hỏa-Lực 30 (?)… Các binh sĩ Dù vừa đi vừa cắt từng đoạn…
Qua khỏi ngã tư, chúng tôi đi xéo về hướng Nam để tránh đường mòn… nhưng sau đó lại gặp một đường mòn khác, cũng có dây điện thoại. Mặt đường nhẵn thín, chứng tỏ Cộng quân sử dụng tối đa con lộ này. Tôi nhẫm tính từ đây đến Căn-Cứ Hỏa-Lực 30 chúng tôi không quá 1500 thước đường chim bay mà hệ thống liên lạc hữu tuyến của địch đầy dẫy như thế, hẳn chúng đã có một kế hoạch thanh toán chúng tôi từ lâu, nhưng chúng chưa thực hiện được đó thôi.
Những dốc đứng lần lượt hiện ra trước mắt chúng tôi, hết dốc này nối tiếp dốc kia, độ dốc cao hơn triền núi chiều hôm qua! Tất cả anh em đều mệt ngất và thỉnh thoảng nhắc tôi:
– Giá hôm nay còn anh Xề cũng không biết làm sao khiêng cho nổi.
Hình ảnh Xề lại hiện đến với tôi!
Tôi cố gắng hết sức, chống gậy đi trước Lân. Có những dốc cao chắn ngang bằng những rễ cây… phải đu cả người, chúi đầu về đằng trước làm điểm tựa rồi nhờ anh em đi sau đẩy mới lên được!…
Đến trưa, có lệnh tạm nghỉ. Nước đã hết không còn một giọt… Vài anh em móc bao gạo sấy, lần từng nắm bỏ vào mồm nhai rôm rốp… trong lúc binh sĩ Dù có nhiều anh em vẫn còn nước đổ vào gạo sấy làm cơm trưa.
Tôi và Lân mệt lả, không biết đói, chỉ có khát nước thôi. Tôi lấy trong túi áo hai thẻ bánh do anh em Dù cho – nguyên bánh này tịch thu được trong túi các chiến binh Cộng sản, mà Lân đã chứng kiến xác họ la liệt ở bãi đáp! Lân e ngại bảo tôi:
– Để khi nào thật đói hãy ăn.
– Chứ bây giờ anh còn no sao? Hay anh gớm vì tịch thu bánh này trên xác địch?
Lân cười không đáp.
Tôi bóc lớp giấy bên ngoài, bẻ nửa thẻ nếm thử. Bánh vừa mặn lại vừa ngọt, khi nước bọt thấm hết vào bánh, tôi có cảm giác deo dẻo, có mùi thơm của đậu xanh pha lẫn mùi nếp… Khi anh em Dù cho tôi, anh em có bảo tôi:
– Mỗi binh sĩ địch đều có mang theo vài thẻ bánh này để cầm thực. Ăn một thẻ như thế có thể no một ngày.
Còn một thẻ rưỡi, tôi gói cẩn thận cất vào chỗ cũ.
…Nghỉ được một tiếng đồng hồ, chúng tôi lại tiếp tục lên đường.
Mãi đến 17g00, chúng tôi đi ngang qua một triền núi bị phát quang bởi B52 và Pháo-đội tôi đốt cháy bằng đạn khói trước đây… Tất cả mọi người đều ngụy trang nón, những nón chưa được vẽ rằn ri, xanh đỏ, phải ôm trước ngực để khỏi lộ mục tiêu vì chói sáng.
Tôi với Lân lo quá! Khoảng trống quá rộng, tại đây tôi quan sát rõ Căn-Cứ Hỏa-Lực 30 và tất cả cảnh trí ven căn-cứ ở mặt Nam, Tây và Đông. Những chướng ngại vật thiên nhiên do đỉnh đồi cao 727 thước với triền núi dốc… đã làm cho Cộng quân mệt lả khi bò lên đến sát rào phòng thủ, còn sức đâu đánh với đấm!
Tôi ê người khi nghĩ đến sự liều lĩnh của Cộng quân, thí mạng vượt qua tất cả triền núi vừa cao vừa dài như thế để tấn công chúng tôi… Điều thất bại hẳn đã thấy rõ! Vậy mà các cấp chỉ huy của chúng lại có thể điên cuồng thực hiện các cuộc xung phong!
Sau khi vượt qua quãng đường trống trải nguy hiểm này, chúng tôi tiến lên ngọn đồi thấp đằng trước. Thiếu-tá Mạnh cho lệnh dừng quân. Các Đại-đội lập tức chia nhau đóng xa BCH/TĐ, đặt các tổ báo động, các tổ chiến đấu…
Đến phút này, hầu hết mọi người không ai còn một giọt nước. Anh em chia nhau, kẻ đốn cây, người đào công sự tạm, số còn lại tung ra tứ phía đi tìm nước.
Một tiếng đồng hồ sau, các Pháo-thủ đem về cho tôi hai nón sắt đầy nước. Tôi cùng Lân uống đến no. Sau đó, tôi phân phối nhân viên nghỉ tạm quanh tôi và Lân. Giao TS1 Lục cắt đặt việc canh gác, đốc thúc anh em đào hầm trú ẩn để tránh pháo kích địch.
Trong suốt thời gian di chuyển, có vài lần tôi nhờ máy của Thiếu-úy Sĩ-quan Liên-lạc 320, liên lạc với Đại-úy Vẹn ở A-Lưới và Thiếu-tá Hằng ở Phú Lộc, song tôi từ chối trả lời hướng di chuyển cùng tọa độ điểm đứng vì sợ lộ, địch kiểm thính được sẽ thực hiện cuộc tấn công bất thần hoặc phục kích chận đường, nhất là vùng này đối với chúng quá quen thuộc, sự điều động binh sĩ của chúng hẳn là nhanh chóng, dễ dàng… Trong lúc chúng tôi di chuyển hoàn toàn nhờ vào bản đồ và địa bàn, vượt suối leo đồi chứ không theo một đường mòn nào cả.
Tôi biết Thiếu-tá Hằng và Đại-úy Vẹn rất lo, cũng như không mấy bằng lòng tôi, song tôi không thể làm hơn được. Tôi nghĩ: Với hệ thống liên lạc vô tuyến của BCH/TĐ2 Dù và Bộ Tư Lệnh Dù ở Khe Sanh, sẽ cho Thiếu-tá Tiểu-đoàn Trưởng của tôi những tin tức xác thực về cuộc di chuyển mà chúng tôi đang thực hiện.
Từ sáng đến giờ, lai rai tôi uống có đến 10 viên Anacine nhưng lại không có lấy một miếng cơm trong bụng. Xót ruột một cách kỳ lạ.
B1 Một mang lại cho tôi một bịch gạo sấy loại nhỏ đã ngâm nước lạnh với một lon thịt gà hộp… Cùng với Lân, chúng tôi xúc mỗi đứa một muỗng, chắp miệng không biết bao nhiêu lần, nhưng cơm vẫn không muốn trôi vào cổ!
Bấy giờ, đằng sau tôi khoảng 5 thước, một binh sĩ Dù cầm lại cho tôi một ca cơm mới nấu nóng hổi trộn lẫn với canh bí đao. Anh bảo tôi:
– Đại-úy dùng ca cơm tôi mới nấu này… Cơ khổ, Đại-úy ốm yếu thế mà ăn như vậy nữa thì làm sao đi nổi?…
Tôi cầm ca cơm, nhìn Lân ứa nước mắt! Chính binh sĩ này đã hơn một lần, tôi từ chối không cho nước. Sau đó, vì tôi báo cáo vụ tháo gỡ dù trong đạn chiếu sáng trên Căn-Cứ Hỏa-Lực 30, anh đã thọ phạt trước mặt tôi ngay tại BCH/TĐ2 Dù. Giờ đây, chính anh ta lại mang cơm đến cho tôi ăn! Có thể thế được ư?…
Tôi ngập ngừng hỏi anh:
– Anh không giận tôi báo cáo để anh bị phạt hôm trước? Anh cũng không giận vì tôi đã không cho anh nước hôm còn ở trên căn-cứ sao?
– Thưa Đại-úy, việc Đại-úy giữ nước để tu bổ súng, tuy hôm đó, tôi có bực mình thật, nhưng nghĩ lại, súng có tốt, Đại-úy mới yểm trợ giúp đỡ cho anh em tôi hiệu quả… Còn việc tôi bị phạt là tại tôi chứ phải vì Đại-úy đâu?… Lính mà Đại-úy!… Tiểu-đoàn tôi bây giờ phạt thế là nhẹ nhất rồi đấy!…
Anh nói rồi cười ha hả, xem như những gì đã qua, không đáng cho anh để ý nữa.
Hành động của anh, thêm một lần nữa làm cho tôi thầm phục Tiểu-đoàn 2 Dù. Những tiếng «Lính mà Đại-úy» cho tôi ý niệm về hành động vô tư, có thể bất cứ binh sĩ nào của Tiểu-đoàn này cũng có. Nó vô thưởng vô phạt, vì ý thức «thiện» không phải là không có khi hành động, nên những lầm lỗi của họ đáng mến hơn là đáng trách.
…Cũng như đêm qua, đêm nay, Lân và tôi ôm nhau nằm trên đá sỏi, màn trời chiếu đất – đúng nghĩa màn trời chiếu đất!
Khoảng 24g30, vài quả đạn rơi gần các tổ chiến đấu, mảnh văng vào chỗ chúng tôi nằm, tiếng nổ chát tai, có lẽ là đạn 57, 75 ly của Cộng quân. Tuy vậy, không ai bị thương, cũng không có tiếng súng phản ứng.
Rạng ngày 5 tháng 3-1971, Thiếu-tá Mạnh gọi tôi đến bảo:
– Anh khỏe chưa? (vừa cười, Thiếu-tá tiếp)… tôi chìu ý anh, xin được phương tiện triệt thoái hết các thương binh và Pháo-binh của anh cùng Biệt-Động-Quân rồi. Tôi đã ra lệnh chốc nữa dọn bãi đáp sẵn để đón trực thăng.
– Cám ơn Thiếu-tá. Trong hai ngày qua theo chân Thiếu-tá, tôi mệt quá. Ước gì đừng đau ốm, tôi cũng không ngán… ngặt cái chân đau và bệnh kiết không dứt.
– Có các anh đi theo, bọn tôi thêm lúng túng, tôi chỉ mong các anh về càng sớm càng hay, để bọn tôi rảnh tay chiến đấu. Dầu sao bọn tôi quen lội bộ, đánh bộ hơn các anh.
– Thiếu-tá bảo rất đúng. Tôi nghĩ Thiếu-tá và Đại-úy Hạnh thật tình lo cho chúng tôi hết mình… Về lại Khe Sanh chuyến này, không biết sau này khi trang bị lại đại bác, có còn yểm trợ trực tiếp cho Tiểu-đoàn 2 Dù nữa không? Tôi mong sao lần sau, có dịp cùng chiến đấu với Thiếu-tá và anh em Dù trong Tiểu-đoàn này. Tôi cũng thành thật tỏ bày với Thiếu-tá – Đây là lần đầu tiên tôi phải tăng phái cho Dù – và nhờ chuyến đi này, Pháo-đội tôi học được nhiều kinh nghiệm hơn bao giờ hết…
Tôi trở về với Lân, thuật lại lời Thiếu-tá Mạnh, xong tôi cho lệnh gom anh em lại một chỗ và chia ra thành nhiều toán nhỏ, mỗi toán 8 người. Kẻ bị thương sắp trước, người mạnh kế tiếp… ngồi dọc một hàng thật trật tự.
Trong số anh em Biệt-Động-Quân còn lại, có một TS1 Trưởng toán, nghe triệt thoái bằng trực thăng liền tìm đến tôi.
– Thưa Đại-úy, Pháo-binh và Biệt-Động-Quân hôm nay được trực thăng bốc hả?
– Tôi vừa nhận lệnh đây, Dù sắp dọn bãi đáp, có lẽ chốc nữa trực thăng sẽ đến. Anh lo sắp hàng cho anh em đi là vừa.
– Đại-úy cho bọn em theo với. Mấy anh em bị thương trông thảm quá.
– Tôi biết nỗi khó khăn phải cõng, phải dìu thương binh… nó sờ sờ ra đấy ai mà không thấy… Anh em tập trung số thương binh ra phía trước, sắp chung với số thương binh của Tiểu-đoàn 2 Dù và các thương binh của tôi cho dễ kiểm soát… Bây giờ chỉ có lệnh triệt thoái thương binh, Pháo-binh và các anh thôi. Còn anh em Dù vẫn tiếp tục chiến đấu theo lệnh mới… Các anh nên cố gắng giữ trật tự kẻo bị Thiếu-tá la và nhất là phi công nó sợ, nó không dám bốc…
Anh ta cám ơn tôi, đi cắt đặt các toán ngồi song song với Pháo-binh.
Từ hai hôm nay, tuy chúng tôi không còn một ai trên Căn-Cứ Hỏa-Lực 30 nữa, tại đây chỉ có bãi mìn tự động bao quanh, thế mà địch vẫn tiếp tục pháo kích! Thỉnh thoảng tiếng ầm ầm vang vọng từ căn-cứ do đạn pháo kích địch rót vào, bụi đất tung lên… làm cho chúng tôi thầm nghĩ: Có lẽ Cộng quân đã «ê răng, ê càng» vì sau 7 ngày đêm tấn công liên tục, dồn dập, với những trận mưa pháo kích và nhất là kho đạn phát nổ giữa lòng căn-cứ… chúng vẫn không áp đảo nổi chúng tôi – hẳn chúng phải tởm, không dám xua quân lên chiếm nữa! Và có lẽ chúng đinh ninh rằng lực lượng ta còn cố thủ vị trí?!…
Sáng nay cũng thế, tiếng đạn pháo kích của địch vẫn nối tiếp vang vọng cả núi rừng để uy hiếp một «Căn Cứ Bỏ Ngõ»!
…Chuẩn Úy Long, chỉ huy một Trung-đội Dù – thoạt trông, tôi có cảm tưởng Long lớn tuổi hơn tôi vì bộ râu quai nón khá rậm và dài, chứng tích của những ngày tử thủ tiền đồn Đông-Nam Căn-Cứ Hỏa-Lực 30… đang tiến về phía tôi, trên tay cầm một ca cà phê nóng hổi. Long đến bên cạnh tôi tâm sự:
– Khi nãy, thấy Đại-úy vác cái cuốc ở dưới dốc đi lên, trông thiểu não quá! Đại-úy bị bệnh chăng?
– Tôi bị bệnh cả tuần nay, song không can gì, ngặt có chứng sưng khớp xương làm tôi đau đớn nhất. Tôi đã chạy chữa 18 năm nay, nhưng «tiền mất, tật còn»… giờ phải lội bộ, leo núi theo các anh em, nên nó tái phát nhức lắm!
Long trao cho tôi ca cà phê, mời tôi uống… nể lời, tôi chỉ hớp một hớp vì sợ bệnh kiết sẽ nặng hơn chăng! Tiếp đó, tôi chuyền ca cà phê qua Lân. Ba anh em cùng uống chung ca cà phê nấu bằng nước suối. Hương vị thật ngọt ngào dễ dỗ chúng tôi liên tưởng đến những phòng trà, quán giải khát ở chốn phồn hoa đô thị… Sau đó, Long mời tôi xuống phía dưới, nơi anh và Trung-đội của anh đang tạm trú.
Ngồi trên miệng hầm có gát cây rừng, bên trên phủ một lớp cây dày, Long bảo tôi:
– Nếu có gì trục trặc không về được hậu cứ hôm nay, Đại-úy đến ở chung với tôi cho bảo đảm.
– Cám ơn anh, tôi còn hơn 30 nhân viên, thành phải ở đằng ấy cho chúng yên tâm.
Nồi cơm sáng bốc hơi nghi ngút. Tôi và Lân được Long mời dùng cơm cùng với binh sĩ của Trung-đội anh. Lân ăn rất thật tình, riêng tôi vẫn cứ ngại ngại bởi chứng kiết chưa dứt, không dám bắt kịp Lân – dù tôi đói và thèm cơm kinh khủng!
Sau bữa cơm, chúng tôi ngồi phì phà rít thuốc lá… TS1 Bang nhìn thấy tôi, vội chạy lại xin cái bi-đông và cái địa bàn. Tôi bảo:
– Tôi biếu anh đấy, nhưng nếu tôi về không được thì xin anh trả lại cho tôi để tôi đựng nước… và nhắm hướng mà đi…
– Đại-úy yên trí, tôi sẽ trả lại Đại-úy ngay, nếu Đại-úy còn kẹt… À này, tôi biếu Đại-úy 10 đồng Hồ Chí Minh… tôi tịch thu được của Việt cộng trên căn-cứ hôm trước… Đại-úy giữ làm kỷ niệm…
Vừa nói, Bang vừa móc trong túi áo, trao cho tôi tờ giấy bạc 10 đồng có in hình Hồ Chí Minh bên góc.
Chúng tôi đợi mãi đến 13g00 hơn mới có trực thăng đến. Tại bãi đáp, khuất trong đám cây cao và rậm, Đại-úy Hạnh hướng dẫn phi cơ đáp xuống bãi… nơi đó có lựu đạn khói màu đánh dấu.
Chiếc trực thăng đầu tiên hạ thật thấp, xô vội các thùng đạn, tiếp nhận tất cả vũ khí cá nhân và cộng đồng – chiến lợi phẩm tịch thu của địch trong đêm 2 tháng 3-1971 – trận đánh cuối cùng trước khi chúng tôi rời căn-cứ. Số chiến lợi phẩm này khá nhiều, chở đầy một trực thăng.
Chiếc thứ nhì… thứ ba… cũng như chiếc trước, sau khi vứt các kiện đạn, liền tiếp nhận toán thương binh.
Nhìn Lân và các thương binh được lên trực thăng, tôi mừng quá! Tôi bước đến cạnh Đại-úy Hạnh hỏi vài điều… Chiếc thứ năm bắt đầu triệt thoái Pháo-binh và Biệt-Động-Quân. Tôi không thể lên được, phi công không chịu hạ thấp – phải chăng phi hành đoàn thấy toán sau này đều khỏe mạnh cả? Không một ai bị băng bó nên cứ lơ lửng trên không!… Chàng xạ thủ đại liên ngồi bên hông trực thăng hờm sẵn cây thông nòng đại liên, giới hạn chở một số người vừa sức cho trực thăng bốc lên. Một số Pháo-thủ của tôi, một vài binh sĩ Biệt-Động-Quân về được chuyến này.
Trong lúc chờ chiếc thứ năm và thứ sáu, tôi gỡ bọc vải ngụy trang nón sắt để lộ 3 mai vàng, sơn trước nón… Tôi hy vọng các phi công sẽ bình tĩnh hơn khi thấy có Sĩ-quan hướng dẫn. Tôi đã nghĩ đúng! Khi tiến từ từ đến trực thăng, phi công ngoài nhìn tôi và cho trực thăng hạ thật thấp – Tuy chân trực thăng không chấm đất, nhưng vừa tầm cho tôi co chân bước lên. Ngay khi đó, xạ thủ đại liên, một tay nắm giá súng, một tay nắm chặt vai tôi, lôi mạnh vào trong trực thăng. Tất cả cử động này được thực hiện chớp nhoáng.
Kết quả, trong hai chuyến đi này, trực thăng bốc được 16 nhân viên vừa Pháo-binh vừa Biệt-Động-Quân.
Ngồi trên trực thăng, tôi nhìn lại Căn-Cứ Hỏa-Lực 30 với một tầm xa không quá 2500 thước, khói lửa mịt mù hòa lẫn với tiếng nổ kinh hồn do bom trên các phản lực cơ dội xuống!… Nhiều tiếng nổ phụ tiếp theo… Nơi đó, chỉ còn một địch quân mà chúng tôi nghi ngờ là «Pathet Lào» do binh sĩ Dù bắt được hôm 3 tháng 3-1971. Binh sĩ này không được chúng tôi mang theo, vì ngay cả thương binh của chúng tôi cũng vất vả khó khăn lắm mới di tản được, huống hồ là một thương binh của địch. Nhưng thật sự, lúc bấy giờ, phương tiện tản tương là một vấn đề nan giải! Dù chúng tôi phải chua xót để một thương binh địch lại căn-cứ! Tôi còn nhớ rõ, hình ảnh các chiến sĩ Dù khiêng hắn ta đặt ngay giữa hầm bệnh xá, bên trên có PSP và vài lớp bao cát – Đó là cái hầm duy nhất còn mái che, với hy vọng, một hy vọng mong manh, nó sẽ có thể sống sót sau khi chúng tôi rút khỏi căn-cứ, nhờ đồng đội chúng bò lên mang đi cứu chữa!…
Giờ đây, Căn-Cứ Hỏa-Lực 30 bị hủy diệt hoàn toàn! Chắc chắn sẽ không còn một tí gì sót lại để Cộng quân xử dụng, và không biết số phận của thằng bé «Pathet Lào» ấy sẽ ra sao?…
Để tỏ lòng biết ơn chàng xạ thủ đại liên, tôi biếu anh ta tấm giấy bạc 1 đồng và 1 huy hiệu Sĩ-quan Cộng quân, do tôi thu được trên bãi trực thăng ở Căn-Cứ Hỏa-Lực 30 sáng ngày 27 tháng 2. Anh ta tỏ vẻ mừng lắm, gỡ vội nón đang đội trên đầu đặt xuống cạnh ghế, trườn người lại hỏi chuyện tôi…
No comments:
Post a Comment