Nhân vội vã bước lên tàu, bên cạnh những hành khách rời cao nguyên đất đỏ leiku, trên chuyến bay C 47 chiều cuối tuần, bên cạnh anh là một cô gái Huế, cô hay nhìn lên bộ áo bay đã ngả màu của anh. Trên hàng ghế dựa hai bên thân tàu, mọi người ai nấy đã vào ghế ngồi, và thắt giây an toàn, con tàu tiến dần ra phi đạo.
Nhân
nhìn đồng hồ, như một thói quen mỗi lần tàu cất cánh. Cô gái hỏi anh
trong tiếng ồn của máy bay đang bắt đầu tăng tốc độ để cất cánh, chàng
không nghe rõ câu hỏi, nhưng nhìn theo cử chỉ của cô gái, chàng trả lời:
" 3 giờ 02 phút thưa cô".
Con tàu cố gắng vươn lên để lấy cao
độ, hành khách bị lôi theo độ dốc của con tàu, mái tóc thề của cô gái bị
gió đưa về phiá sau, che một phần áo bay đã bạc màu của chàng, trông
thật dễ thương. Chàng để yên và ngửi thấy mùi thật êm dịu của tóc nàng.
Cô gái quay lại xin lỗi, với vẻ thẹn thùng. Nhân mở đầu câu chuyện trong
tiếng ồn của máy bay đang rền ở bên ngoài.
- Cô về đâu? ...
Cô gái đáp ngay như đã sẵn sàng từ lâu:
- Dạ em về Huế, thế còn anh?...
Tiếng
cô gái thật tươi vui, Nhân nhìn kỹ hơn qua vai nàng, đôi mắt tròn với
hàng lông mi đen dài, sóng mủi thon và đặc biệt làn môi như những quả
đào đang mùa.
Nhân trả lời:
- Tôi cũng về Huế, nhưng chắc là không còn xe để ra Huế, khi tàu về đến Ðà Nẵng chiều nay.
Nàng trả lời nho nhỏ:
- Dạ ...
Nhân nghĩ về mấy tháng trước hồi còn ở Cần Thơ, phi trường Bình Thủy, nơi chàng đã sống bốn năm, bên dòng sông Hậu, với bao nhiêu vui buồn, với những chuyến bay đêm, những sớm mai bay dọc theo những hàng dừa xanh hai bên bờ kinh, băng qua những cánh đồng lúa. Nhân và các bạn của chàng thường cất cánh khi mọi người đang còn ngủ yên, để đến những điểm hẹn, trước lúc bình minh. Rồi những ngày ghé lại Tô Châu, Hà Tiên, bay dọc theo con kinh Vĩnh Tế. Có lúc ghé về Cà Mau, U-Minh nơi những đầm đầy những cây tràm, cây đước.
Có một lần chàng đã thả toán tại mủi Cà Mau; phần đất cuối cùng của dải đất hình chử "S". Từ trên trời cao nhìn xuống một màu xanh tươi của vùng đồng bằng với những làn sương mai đang còn lảng vảng trên mặt đất.
Trong khung cảnh thanh bình đó, cũng đang ẩn dấu những trận chiến khốc liệt, và bao người tranh nhau từng tất đất chiếm ngự.
Chợt cô gái quay lại hỏi:
-Anh đang nghĩ gì mà có vẽ đăm chiêu như thế?
Cô ta đang chăm chăm nhìn vào khuôn mặt thiếu vắng nụ cười của Nhân, chàng trả lời:
-Tôi đang nghĩ về những ngày ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Chàng và cô gái thật ngượng ngùng khi chưa biết được tên nhau, rồi chàng lên tiếng:
-Tôi tên Nhân, thế còn tên cô?
Cô gái có phần dạn dĩ hơn.
-Dạ em tên Hoá...
Nàng nói tên mình một cách rất tự nhiên và đang theo dõi người đối diện. Có lúc nàng bắt gặp ánh mắt của Nhân nhìn nàng, Hoá tỏ vẻ thẹn thùng, rồi cả hai bắt đầu những mẩu chuyện về mình, Hoá hỏi:
-Anh Nhân mới ra Pleiku?
Chàng trả lời trong niềm luyến tiếc:
-Vâng tôi ra Pleiku đã 3 tháng!... Thế còn Hoá?
Hoá cho biết nàng có người anh là một sĩ quan ngành Quân Cảnh Tư Pháp (QCTP), đang đóng tại Pleiku, anh Trương Hữu Lạc trưởng phòng QCTP Pleiku, Hoá nói:
-Em ghé thăm anh chị của em, và ở chơi với họ hơn một tháng; sau khi tan trường ở Huế.
Nhân cũng là học sinh của Huế, sau ngày Mậu Thân, chàng tình nguyện vào Quân chủng Không Quân để trở thành một Phi Công.Hoá đã bắt đầu dạn dĩ hơn, và câu chuyện mỗi lúc một vui hơn, rồi nàng quay qua hỏi Nhân:
-Anh Nhân có thường về thăm Huế không?
Nhân lắc đầu không nói, chàng nhớ ra mình đã ít về Huế, hầu như mỗi năm chỉ một lần. Chàng đã về Huế trước khi thuyên chuyễn lên Pleiku, lần này với lý do đặc biệt nên chàng lại được ghé thăm nhà 15 ngày trước khi trở lại đơn vị.
-Anh hôm nay là IP (huấn luyện viên) của Phương đấy nhé.
Nhân mỉm cười, vì ghế trái dành cho những IP (Instructor Pilot) của ngày nào tại các trường bay bên Mỹ; mà Phương và chàng đã trải qua trong thời gian huấn luyện hồi 69-70. Hôm ấy Phương và Nhân là phi hành đoàn thứ ba trong phi vụ thả toán. Trời vừa lờ mờ sáng cả đoàn trực thăng bay về đáp tại căn cứ thuộc lực lượng Lôi Hổ cạnh Biển Hồ trên đường đi Chu Pao. Trông nét mặt mọi người, ai nấy đều rất nghiêm trọng, vì tình hình hai toán Lôi Hổ vào lòng địch trước đây đã bị bắt, toán thứ ba vừa hoàn thành nhiệm vụ, thì bị phát giác, và đang trốn quanh căn cứ của Bộ Tư Lệnh tiền phương của địch; nằm sát biên giới Việt Lào.
Phương và Nhân vào phòng hành quân để tham dự buổi thuyết trình của sĩ quan quân báo. Ai nấy đều im lặng, vì sứ mạng hôm nay là bằng mọi giá phải bốc cho được toán thám sát thứ ba này. Toán sáu người này, sáng nay đã liên lạc về cho biết là họ đã hoàn thành nhiệm vụ, nhưng suốt đêm qua đã phải ẩn náu quanh các trại của địch quân tiếp cận biên giới.
Trên vòm trời lúc ấy, còn có một máy bay điều động C&C và một máy bay thám thính L-19 để đánh trái khói. Út và Nhân thường băng qua biên giới để vào vùng Chipu phiá Bắc của Lộc Ninh hơn 60 dặm. Nhân chẳøng thấy có một chút e ngại nào, có lẽ vì "điếc nên không sợ súng chăng" ?... Bây giờ Út đã ra đi, còn Nhân thuyên chuyển ra Pleiku.
Tuần trước tại căn cứ Lực Lượng Ðặc Biệt này, Nhân đã được một anh em biệt kích cho chiếc áo tránh miểng lựu đạn, và chỉ cách lấy bột của lựu đạn cay, bỏ vào hộp đựng phim để phòng hờ cho việc mưu sinh. Hôm nay trở lại người anh em trong toán trinh sát đó vẫn còn đây, và đang chờ đợi cho chuyến nhảy toán kế tiếp. Những người lính thám sát này rất trẻ và vào lứa tuổi của em trai chàng. Trong khi những bạn đồng trang lứa với họ, đang vui sống phè phởn trong các đô thị, còn họ thì lặn lội trong chốn rừng đầy hiểm nguy, và không có dịp để nghĩ về tương lai của chính mình. Họ là những người lính âm thầm hoạt động trong những rừng sâu núi thẳm. Sau vài chuyến nhảy toán, họ được về thành phố sống vội, rồi trở lại căn trại nhỏ hẹp này để chuẩn bị đi vào lòng đất địch.
Hợp
đoàn trực thăng cất cánh lên Kontum, chờ đợi phi vụ bay vào vùng biên
giới. Ban truyền tin vẫn chưa nhậân được tín hiệu của toán sáu người
đang len lỏi trong đám rừng già, nơi địch quân đang trú đóng. Mọi người
được lệnh nghĩ để ăn trưa. Vị sĩ quan tiền sát cho biết: "Chắc đến 1 hay
2 giờ nửa mới có kế hoạch bốc, khi toán người này ra đến gần bãi đáp."
Cả đoàn rủ nhau ra phố để dùng cơm trưa, sau đó Phương rủ anh em vào một
quán nước nghèo nàn bên góc phố, uống cà phê để được tỉnh táo.
Hôm
ấy Phương tâm sự thật nhiều với Nhân, Phương đã tỏ bày những nỗi niềm
của anh từ ngày anh xa vắng Sài Gòn, nơi người bạn gái anh hằng thư từ,
và giao du trong những chuyến về phép. Phương nói về một mối tình của
một cô nữ sinh, với anh.
Anh cùng cô bạn gái ấy, từng một thuở ở
mái trường Ðại Học với nhiều lần hẹn hò. Giờ đây với nghiệp bay trên
vai, anh hẹn với người bạn gái ngày anh thuyên chuyển về lại Thủ Ðô.
Ngày ấy cũng là lúc em học xong Ðại Học Sư Phạm. Họ đã ước hẹn một tương
lai thật đẹp với nhau. Lúc ấy, nàng đi dạy học và chàng quay về với
nàng sau mỗi chuyến bay.
Họ sẽ sống với nhau đầm ấm bên các con
của họ. Ðó cũng chính là những hình ảnh Phương và người bạn gái từng
mong đợi. Họ sẽ thực hiện được ước mơ này, trong chuyến đổi về Sài Gòn
vào dịp cuối năm này của Phương. Trong phi đoàn, Phương là người có một
vóc dáng rất thư sinh, khuôn mặt với nước da trắng và nụ cười trên môi,
anh được bạn bè quí mến, và tâm hồn luôn nghĩ về những niềm ước mơ của
một nếp sống hạnh phúc thanh nhàn.
Hôm nay Phương và Nhân nhận
lãnh phi vụ bay vào lòng địch để bốc toán thám sát sáu người. Ðáng lý
ra, người bay chiếc số hai của phi vụ này là Huyên, nhưng hồi 1 giờ trưa
Huyên đã nhận lệnh cất cánh đi tiếp tế tại một tiền đồn gần biên giới
phía Tây Bắc Kontum. Phương và Nhân cùng xem lại các dụng cụ phi hành
đem theo: chiếc bản đồ có đánh dấu toạ độ, và chiếc radio cấp cứu.
Tuần
trước Nhân tìm cách đổi chiếc radio của mình, vì chỉ chiếc radio cũ chỉ
có phát, nhưng không nghe được tín hiệu. Phòng Tiếp Liệu Cấp Cứu Phi
Hành không có radio khác để thay thế, nên anh đã tiếp tục đi bay với
radio không nhận được tín hiệu Ðúng 3 giờ chiều, khi sĩ quan tiền sát
báo cáo là, đã nhận được tin tức toán trinh sát đang trên đường tiến về
phiá mục tiêu.
Nhân cất cánh rời phi trường Kontum. Trên vòm trời
ngoài chiếc C&C của Ðại Úy Hoàng, còn có chiếc U-17 của sĩ quan
tiền sát, hai chiếc GunShip, chiếc slick của Trung Úy Minh và Tuấn đi
lead, chiếc của Phương và Nhân đi số hai. Nhân rời phi trường Kontum
được 15 phút, bay về hướng biên giới Việt Lào, phiá Bắc của tiền đồn
Charlie nơi Tr/tá Nguyễn Ðình Bảo đã ở lại vào mùa hè đỏ lửøa 1972.
Nhân
tiến sâu vào những vùng núi cao của dãy Trường Sơn, bên dưới phi cơ là
những khu rừng dày đặc. Lâu lâu chàng thoáng thấy vài cánh chim đang bay
lượn trên vòm trời hoang vắng này. Nhân đang tiến dần đến tọa độ điểm
hẹn, tiếng của Ðại Úy Hoàng gọi trong vô tuyến:
-Số hai, vị trí bãi đáp bên phải của anh.
Nhân trả lời:
-Số hai, nghe năm.
Phương bảo Nhân: "Tôi thấy dấu trái khói trên bãi đáp bên phải của tôi, bác để tôi đáp cho...", Nhân trao cần lái cho Phương.
Khi con tàu đang hạ dần cao độ, Nhân nghe tiếng đạn AK-47 từ phiá dưới đất bắn lên, Phương báo cáo:
-Có ground fire!...
Bên kia vô tuyến Ð/uý Hoàng đáp lại:
-Số hai, có sao không?... Vào đáp đi!
Phương trả lời:
-Số hai, không sao. ... Nhận lệnh vào đáp.
Tiếng
đạn bắn lên đã ngưng, con tàu tiếp tục tiến về hướng trái khói, và giảm
dần tốc độ. Bãi đáp là một mảnh đất trống nằm lọt trong những rừng cây
trên triền núi cao. Nhân thấy thêm một trái khói nữa vừa tung ra trên
bãi đáp, và lố nhố những người lính thám sát đang đứng cạnh một thân cây
mục giữa Bãi đáp. Trong suốt đoạn đường vào bãi đáp thật yên tĩnh, một
thứ yên tĩnh rất đáng lo , vì lực lượng địch quân đang trú đóng quanh
đây, và nơi này cũng là nơi gần bộ chỉ huy của họ.
Con tàu chưa
chạm đất hẳn, sáu người lính Lôi Hổ vội vàng nhảy lên. Phương đang giữ
tàu ở vị thế Hovering, và tiếp tục cất cánh. Nhân quan sát các đồng hồ,
xong nhìn lên những thân cây cao trước con tàu. Ðấy là những thân cây
cao chừng 30 mét , con tàu cố gắng ngoi lên khỏi đọt cây trong tư thế
nhấc thẳng vội vã, Nhân vừa thở xoà khi vừa ra được khỏi bãi đáp.
Cùng
lúc đó, có tiếng nổ chát chúa của đạn phòng không đang bắn trực xạ vào
tàu, chàng nghe những tiếng bốp bốp bên phiá của Phương ngồi. Nhân thấy
một lổ hổng thật lớn nơi cửa kính trước mặt của Phương, con tàu như
khựng lại.
Chàng nhìn thấy Phương đã buông cần lái và đầu cúi
gục xuống. Nhân chụp vào cần lái như một phản ứng tự nhiên, chàng cố kéo
cần lái để nâng mũi chiếc tàu lên. Con tàu không còn sức nâng, cần
Collective và Cyclic cứng ngắc. Hệ thống Hydraulic chắc đã bị trúng
đạn!... Con tàu tiếp tục lao xuống, Nhân cố kéo cần lái để bình phi. Hệ
thống thủy điều đã bị phá vở nên cần lái trở nên nặng nề và rất khó điều
khiển. Sau khi bình phi được rồi, con tàu lại đâm đầu xuống.
Mọi người trên tàu nhốn nháo, ai nấy đều ở trong trạng thái kinh hoàng.
Một
thoáng suy nghĩ qua nhanh, Nhân cố gắng đưa con tàu áp vào núi, bề mặt
vòng cánh quạt song song với độ dốc của núi. Con tàu cứ thế lao tới, và
trước mặt là một thân cây to cao.
Hai cánh quạt chính chặt vào
cây, cánh quạt trước đã nổ tan tành, thân tàu đã xen vào thân cây. Càng
đáp bên trái vừa chạm đất, thân tàu bên ghế phải của Phương gác tựa vào
thân cây, đồng thời là tiếng hú của máy thật lớn!...
Sáu anh Lôi
Hổ vội vàng nhảy ra khỏi tàu, kéo cả Ðại (Cơ phi) và Tài (Xạ thủ) theo
họ. Phương vẫn ngồi gục đầu trên ghế bay, Nhân tiếp tục lo tắt máy để hy
vọng tắt đi tiếng ồn.
Chàng tắt nút xăng và mọi nút khác bật
vào vị trí OFF, nhưng tiếng máy vẫn hú vang cả một vùng rừng, nghe ghê
rợn như một con thú bị cắt tiết.
Nhân nhìn qua Phương một lần
nữa, rồi chàng tháo nịt an toàn bước ra phiá sau, kéo theo cái túi bay.
Từ phiá đằng sau ghế ngồi của Phương, chàng chồm lên phía trước Phương,
cố gắng tháo dây nịt an toàn cho người bạn của mình. Nhân dùng hai tay
xốc nách Phương và rán hết sức để kéo Phương ra, sau mấy lần cố gắng,
nhưng không làm sao nhấc Phương ra khỏi chiếc ghế bay được.
Nhân
nhìn quanh để tìm người giúp, nhưng chung quanh chỉ còn lại mỗi mình
chàng. Hai người cơ phi và xạ thủ cũng đã vội vàng đi theo các anh Lôi
Hổ. Nhân đành bó tay, và có ý nghĩ rằng chính Phương đã không muốn chàng
liên lụy trong hoàn cảnh gian nguy này.
Nhân nhìn lại Phương lần cuối, rồi quyết định lui bước ra phiá cửa sau để ra khỏi tàu!...
Khi
đã ra khỏi tàu, Nhân quan sát kỹ tình trạng của con tàu, chiếc cánh
quạt đuôi vẫn còn đang quay tít. Một cành cây đã đập vào phần sau máy
cạnh ống khói, có lẽ đó là lý do tại sao tàu không tắt máy được. Nhìn ra
bờ rừng thì cây cối dày đặc, tầm nhìn không quá 10 mét. Nhân lần bước
tiến lên tìm một lối đi, chợt chàng nhìn thấy một cây súng cá nhân AR-15
không có đạn. Ai đó đã bỏ lại trên lối đi, Nhân cũng không màng lượm
lên. Ði được một khoảng thời gian, cái túi bay trên tay chàng trở nên
nặng nề, vì trong túi bay Nhân đã để dây nịt, dao, cây súng cá nhân
P-38, cùng nón bay.
Ðể khỏi vướng bận chàng chỉ lấy ra chiếc
radio rồi dấu chiếc túi bên lối đi, như trút đi một gánh nặng. Nhân tiếp
tục bước lên dốc núi, với đầu trần và chiếc áo bay Nomex hai mảnh trên
người. Càng lúc chàng càng bước xa dần tiếng máy hú bên dưới triền dốc.
Nhân cố chen qua đám rừng già, leo lên dốc được một khoảng khá xa. Tiếng
hú vẫn còn ở bên dưới chân núi vọng lên.
Chàng
len lỏi tiến bước, bỗng thấy trước mặt một khoảng trống thật rộng. Nhân
nhận ra một thân cây mục ở giữa trảng, chàng nhớ lại đây chính là bãi
đáp mà trước đó hơn 20 phút Nhân đã bốc toán Lôi Hổ. Nhận ra vị trí này,
Nhân vội nép mình sau một bụi trúc tương đối rậm, và nhìn ra khoảng
trống quan sát. Trên vòm trời có tiếng của chiếc U-17 đang bay trên một
độ cao. Chàng chợt nhớ tới cái radio trong túi quần, Nhân lôi nó ra và
mở máy liên lạc.
-Mayday, Mayday, Mayday, Lạc-long 389 gọi
Thiên-Sứ (danh hiệu của chiếc U-17 trên vòm trời) - Nếu bạn nghe được
tiếng của tôi, xin lắc cánh. ...
Nhân lập lại một lần nữa, thì
thấy chiếc U-17 lắc cánh. Chàng cởi chiếc áo bay, để cởi chiếc áo lót
màu trắng có loang vết máu của Phương văng vào người chàng, lúc Phương
bị trúng đạn. Nhân vội mặc lại áo bay, vừa kéo chiếc áo lót trải trên
một khoảng trống để cho chiếc U-17 định ra vị trí của chàng trên bãi vừa
đáp.
Chiếc U-17 xuống thấp và nhận ra vị trí của chàng. Nhân bắt đầu báo cáo tình trạng của chàng dưới đất:
-Phương
đã chết trên ghế lái, và xác còn ở lại trên tàu - Sáu anh Lôi Hổ đã dẫn
theo Ðại và Tài, còn chỉ một mình tôi đang nằm cạnh bãi đáp. Khi chàng
vừa nói tới đây thì thấy bên kia bờ rừng có bóng bốn người bước ra, Nhân
vội thâu lại chiếc áo lót vào ngực, vặn nhỏ máy vô tuyến và gọi chiếc
U-17:
-Thiên Sứ, yêu cầu bạn rời khỏi vùng để giữ an ninh cho tôi và các người bên dưới.
Gọi
xong Nhân tắt máy, chiếc U-17 nghe điều này, vội vã rời khỏi vùng. Bốn
người lạ từ bên kia bờ rừng đang tiến dần ra giữa trảng. Họ chia nhau
ngồi trên khúc cây khô, rồi bắt đầu trò chuyện và chờ đợi. Nhân quan sát
từng người trong bọn họ, chàng thấy người nào đầu tóc cũng được húi cao
như mái tóc của lính tại Bộ Tư Lệnh, cùng với áo vàng quần xanh vải
kaki Nam Ðịnh. Trên tay họ đang cầm súng cá nhân AR-15 loại ngắn nòng,
dành cho những người lính Lôi Hổ. Nhân tự nhủ:
" Ðám này chính
là những người lính Bắc Việt!... " Chàng vội nằm sát xuống đất không
động đậy, mắt vẫn theo dõi những bóng người giữa bãi đáp. Không còn nghe
tiếng máy bay ở trên trời nữa, bốn người lạ này vẫn ngồi chờ một hồi
lâu. Bỗng dưng hai người trong bọn họ đứng dậy, và đi ngược dốc tiến về
bờ cây để lùng tìm. Hai người này vừa đi vừa chĩa mũi súng vào các bụi
cây, họ đi cặp theo bià của trảng, và dần đi về hướng bụi trúc nơi Nhân
đang núp.
Tiếng hú của chiếc máy bay bên dưới đồi vẫn còn vọng
lên, nghe thật ghê rợn. Hai người lạ này, càng lúc càng tiến tới gần nơi
Nhân ẩn núp. Trong tay của Nhân chỉ có chiếc radio cấp cứu!... Chàng
không có vũ khí để tự vệ, thì làm sao để đối phó đây? ... Những ý tưởng
vút nhanh trong đầu Nhân:
" Chắc là không còn hy vọng gặp lại
gia đình nữa rồi!... Hoặc là bị bắn hay bị bắt như số phận của hai toán
lính Lôi Hổ kia!... Có ai ngờ rằng chàng nằm lại nơi bìa rừng này!...
Chắc là Mẹ chàng sẽ không còn nước mắt khi nghe hung tin này, ..." Nhân
vẫn không quên mỗi lần về phép, Mẹ chàng thường ngồi tựa cửa sổ nhìn ra
sân, như chờ đợi bóng dáng đứa con đầu lòng của Mẹ. Ðôi mắt mẹ chàng
nhạt nhoà lệ, đã khóc oà lên khi nhìn thấy chàng từ đầu ngõ.
Hai
người lính Bắc Việt càng lúc càng tiến gần đến chỗ chàng nằm. Phiá bên
kia bụi trúc có tiếng bước chân sột soạt, mỗi lúc một gần. Nhân như
điếng cả người, thân thể chàng như dí xuống sát mặt đất, mắt vẫn không
rời hai bóng người đang tiến lại gần. Chàng cúi sát mặt xuống nghe ngóng
và chờ đợi, bỗng có tiếng từ giữa trảng vọng lên:
-Các đồng chí chờ chúng tôi.
Hai
tên lính Bắc Việt quay trở lại trảng phía dưới đồi, để nhập cùng với
đồng bọn. Nhân từ từ thở nhẹ, mắt vẫn không rời bốn bóng người đang vội
vã hướng về con dốc phía dưới, nơi chiếc UH-1 đang hú lên vì mất đi đôi
cánh. Bọn họ không ngờ rằng, vẫn còn có một người đang quan sát họ từng
giây, từng phút.
Chờ
cho bốn người kia đi đã khá xa, chàng đứng dậy và đi ngược lên về phía
bên kia đồi. Chàng cảm thấy khát nước, nên với tay kéo các đọt trúc, cắn
vào phần non, trắng, của lá tre, nhắp từng giọt nước hiếm hoi trong các
đọt tre non này. Một lúc sau, chàng nhắm hướng Ðông-Nam (hướng Kontum)
tiếp tục đi. Thuở nhỏ Nhân đã học được từ kinh nghiệm Hướng Ðạo, “dùng
vết rêu trên thân cây để định hướng” bây giờ là lúc chàng áp dụng bài
học mưu sinh thoát hiểm đường rừng.
Nhân nhớ lại ngày nào tại
vùng rừng Savannah bên Mỹ, chàng đã cùng đám bạn học khoá mưu sinh thoát
hiểm đường rừng. Kết thúc cuộc thực tập mưu sinh thoát hiểm, mọi người
cùng được ăn món cháo rắn do mấy anh Cán bộ đãi, sau một ngày tập dợt
mệt nhọc. Rừng ngày đó thưa thớt, tầm mắt có thể thấy xa 50 mét, còn
rừng Trường-Sơn thì dày đặc, 10 mét đã không còn thấy lối đi!...
Nhân
mò mẫm qua đến được ngọn đồi thứ hai, bỗng chàng nghe nhiều tiếng lựu
đạn nổ về phía con tàu. Chàng chẳng biết chuyện gì đang xảy ra cho số
phận của Phương?... Nhân lại tiếp tục lội trong đám rừng già. Có những
khoảng rừng mây gai góc, Nhân phải tiến bước bằng cách đưa lưng ra phiá
trước chịu đựng, để xông qua đám rừng mây phủ khắp lối đi này. Những cây
gai hồng trong rừng móc vào mảnh vải Nomex chàng mặc trên người, nhưng
chiếc áo bay vẫn dai dẳng chịu đựng như ý chí kiên trì của chàng.
Nhân
vừa vượt qua khỏi khu rừng mây, thì thấy ngay trước mặt một bờ rừng
thật trống toàn những thân tre. Chàng thấy quá trống trải nếu phải băng
qua khu rừng tre này. Nghĩ vậy, Nhân tiếp tục bước cặp theo bờ rừng viền
bên ngoài. Bên dưới những gốc tre, không một loại cây con nào có thể
mọc, lá tre rụng trắng cả một bìa rừng. trong lúc đang tiến bước Nhân
chợt nhận ra một cửa hầm cũ; phủ cây lá um tùm, chàng rụt rè bước qua
cửa hầm.
Nhân
chợt nghe đâu đó có tiếng suối nước chảy. Càng tiến lại gần, chàng nhận
thấy những dấu đất đen, dấu vết của một sinh vật nào đó đã chuồi trên
các lá tre khô trắng, để lộ ra các lớp đất đen bên dưới. Nhân tiến lên
thận trọng hơn, mon men theo những dấu vết này, chàng còn nhận ra có một
dấu vết, dường như ai vừa chôn một cái gì đó cạnh bên lối đi, không
được khoả lấp kỹ lưỡng. Càng tiến bước, chàng càng nhận ra có nhiều dấu
chân ngay hướng trước mặt mình. Bất chợt, chàng nghe có tiếng sạt sạt
phía trước, Nhân vội cúi thấp người xuống vừa ẩn núp vừa quan sát. Chàng
nhận thấy có nhiều bóng người thấp thoáng phiá trước.
Chàng đếm
được tất cả là 7 người, và quan sát những người này từ đầu đến chân.
Tất cả bọn họ đầu để tóc dài, và thắt một miếng vải xanh kaki, trên lưng
có mang túi ba-lô và nhiều bình biđông nước. Nhìn xuống đất, chàng nhận
ra các dấu giày của lính Cộng Hoà, Nhân quyết định nằm rạp xuống, và
gọi vọng lên phiá trước:
-Các anh Lôi Hổ ơi, ... Trung Úy Nhân đây, chờ tôi đi với....
Nhân
nghe một loạt tiếng đạn lên nòng, những bóng người phía trước chàng đều
ngồi xuống trong tư thế sẵn sàng tác xạ, mũi súng hướng về phiá chàng,
quơ qua, quơ lại. Nếu họ thấy bất cứ một di động nào, là họ sẽ nổ súng
ngay. Nhân nằm sát đất, không động đậy, chờ một giây lát, rồi chàng lại
lên tiếng gọi một lần nữa:
-Các anh Lôi Hổ. ... Trung Úy Nhân đây, ... chờ tôi đi với.
Trong
rừng tiếng bị dội cho nên họ không định hướng được nơi xuất phát của âm
thanh. Hai người đi sau cùng của toán là Ðại và Tài nhận ra tiếng của
Nhân, nên Ðại đã la lên:
-Trung Úy Nhân đây rồi, ... Ðừng bắn, đừng bắn...
Lúc
ấy Ðại đứng hẳn dậy, trong khi các người khác vẫn ghìm súng hướng về
phiá tiếng vọng với tư thế sẵn sàng bóp cò nếu có gì nguy hiểm.
Nhân cất tiếng gọi lần thứ ba, rồi từ từ đứng lên. Ðại và Tài nhận ra Nhân, hai người ùa lại phía chàng và la lên:
-Ðừng bắn, đừng bắn...
Mọi
người hú vía, vì trong rừng già, bất cứ một vật gì nghi ngờ lay động,
vật này cũng có thể là mục tiêu để mọi người bóp cò. Ðại và Tài còn đeo
cây Colt-45 của họ, còn Nhân thì đã để cây súng P-38 của mình trong tuí
bay, cái tuí bay này đã nằm lại bên một bìa rừng!....
Trưởng
toán Lôi Hổ là một Chuẩn Úy mới ra trường, anh Liêm xuất thân từ trường
Sỹ Quan Trừ Bị Thủ Ðức. Gặp Nhân mọi người rất mừng, và tỏ bày ân hận là
suýt nữa đã bóp cò. Người Chuẩn Úy trưởng toán còn cho biết đây là
chuyến nhảy toán thứ ba của anh từ ngày ra đơn vị, anh lo lắng hỏi
Nhân:
-Liệu có ai đến bốc mình không Trung Úy?
Nhân nhìn đồng hồ, đã 5:30 giờ chiều rồi, chàng nói:
-Các anh yên tâm. Ở nhà sẽ tìm cách bốc chúng ta ngay chiều nay.
Nhân nói như một phản ứng tự nhiên, và chàng chẳng biết sự thực sẽ được như vậy hay không?
Người trưởng toán thám sát đưa cho chàng bình bi-đông nước và dặn dò:
-Trung
Úy uống từng ngụm nhỏ, và từ từ thôi, nếu không ông sẽ bị ngất xỉu đó.
Chàng nhận bình bi-đông nước và làm theo lời của người trưởng toán, chợt
Nhân nhớ ra các tiếng nổ lựu đạn, lúc nãy chàng nghe khi còn ở trong
rừng, chàng hỏi:
-Sau lúc tàu rớt khoảng 1 tiếng, tôi nghe nhiều
tiếng lựu đạn nổ về phía con tàu đang hú. Các anh có nghe thấy các
tiếng nổ này không? Người trưởng toán kể lại:
-Ðó là tiếng lựu
đạn do tụi em ném. Chúng em được lệnh phải trở lại tàu để tìm bốc Trung
Úy, nhưng khi tiến gần tới con tàu, tụi em thấy có bóng bốn người đang
đứng cạnh tàu, nên đã tung cả chục trái lựu đạn mini, bởi vậy Trung Úy
mới bắt kịp tụi em, chứ không tụi em đã rút ra xa rồi. Nhân buột miệng:
-Thì ra là thế!...
Mọi
người tiếp tục di chuyển băng qua một ngọn đồi đầy những giây leo chằng
chịt. Cả bọn cũng khá vất vả, và đang dần đi xuống dốc để đi qua một
ngọn đồi khác. Chợt mọi người thấy có một con đường mòn trước mặt. Tất
cả tìm cách băng qua con đường mòn này, các anh trong toán thám sát
chuẩn bị theo lệnh của người trưởng toán, Nhân, Tài và Ðại cùng bám sát
theo người Chuẩn Úy trẻ tuổi này. Anh Trung Sĩ nằm núp gần con lộ nhất,
từ chỗ núp anh chọi một hòn đá ra giữa đường và chờ đợi.
Mọi
người đều im thin thít. Nhân quan sát con lộ, đây là một con đường đất
đỏ, do xe Công Binh đã xén núi mở đường, bề ngang con lộ đủ để hai chiếc
xe cam-nhông có thể chạy ngược chiều nhau. Một bên bờ vách đất đỏ cao
nghệu, còn bên kia là vực núi. Sau vài lần chọi đá dò dẩm mà không thấy
một động tĩnh, cả toán bắt đầu rời chỗ núp, cùng leo lên con đường đất
đỏ.
Tài và Ðại đi theo người thứ ba và thứ tư leo lên đường, Nhân
đi theo người trưởng toán cùng người cận vệ. Anh trưởng toán cùng với
Nhân leo lên bờ tường đất trước mặt, hai ngón tay Nhân còn đeo lủng lẳng
cái bình bi-đông nước, chàng cố gắng bám vào các rễ cây để leo lên. Leo
được 2/3 bức tường đất, Nhân làm tuột mất bình bi-đông nước;!... Chiếc
bi đông lăn ra ở giữa lộ, phía sau lưng chàng không còn ai bên dưới cả.
Nhân nhìn qua anh trưởng toán, anh ra dấu, đừng bận tâm nữa, Nhân gật
đầu hiểu ý và tiếp tục leo lên theo người trưởng toán và anh cận vệ của
anh.
Vượt khỏi bờ tường đất xong cả đoàn lại nhắm hướng Ðông-Nam
tiến bước. Chưa đầy 10 phút sau cả bọn phải dừng lại vì cơn mưa lớn
đang kéo tới. Mọi người chia nhau ngồi dưới các gốc cây để trú mưa, anh
trưởng toán cùng ngồi chung với Nhân dưới một gốc cây to. Cơn mưa trút
nước xối xả, cả bọn ngồi co quắp lại cho đỡ ướt và đỡ lạnh. Nhân nhìn
những giọt nước mưa chảy dài trên các lá cây trước mặt, chàng nghĩ bâng
quơ về các chuyện vừa xảy ra trước đó.
Người Chuẩn Úy trưởng toán
ngắt điếu thuốc Captain làm hai, trao cho Nhân một nửa và cùng châm lửa
hút. Chàng rít một hơi thật dài, như thêm hơi ấm, để chống lại cái rét
mướt của núi rừng. Tinh thần chàng cảm thấy sảng khoái, một thứ thú vị
mà chàng không thể nào quên. Cơn mưa vẫn dai dẳng trút nước, Nhân co ro
tìm hơi ấm qua nửa điếu thuốc được chia sẻ của người bạn đồng hành.
Bỗng
dưng có tiếng xe đang chạy bên dưới, người trưởng toán ra dấu hiệu cho
cả bọn ngồi im, và cố nép sát vào gốc cây để tìm sự che chắn. Bên dưới
có một đoàn xe đang chạy, đoàn xe này bỗng dưng dừng lại. Nhân nghe có
tiếng súng AK lên đạn, và tiếng người quát lên vọng về phía bức tường
đất nơi còn để lại các vết giày và chiếc bi-đông lăn ra giữa lộ. Bọn
chàng ngồi co rút bên các gốc cây và không rời chỗ núp. Có tiếng AK nổ
lên hằng loạt trong cơn mưa vẫn nặng hạt.
Ðiếu thuốc đã tàn từ
lúc nào trên tay chàng, Nhân ngồi cạnh người trưởng toán, chàng tin
tưởng về sự đối phó của toán người trẻ này. Nhân chỉ biết sơ qua trong
thời gian thụ huấn quân sự ở trường, và chưa bao giờ đụng trận để có
những kinh nghiệm như các bạn trẻ này.
Khi đi rừng họ rất giữ kỷ
luật, và rất rành rẽ về bổn phận của mình. Tài và Ðại cũng bám sát theo
các bạn đồng hành đầy kinh nghiệm này, trong tay thủ sẳn cây Colt-45 của
mình. Mười phút sau có tiếng máy xe rú ga hằng loạt súng bắn lên. Rồi
đoàn xe lại tiếp tục lăn bánh, may cho bọn Nhân là bọn chúng không leo
lên, lần theo dấu vết để lục soát và truy lùng. Anh trưởng toán ra dấu
cho cả bọn tiếp tục hành trình trong cơn mưa chiều, nhờ cơn mưa và rừng
rậm nên sự di chuyển có phần an toàn hơn. Người trưởng toán đưa chiếc
radio cấp cứu của anh cho Nhân và nhờ gọi máy bay, chàng vừa bật nút
công tắc lên đã nghe tiếng:
- .....Yêu cầu các bạn lên tiếng nếu không chúng tôi sẽ quay về.
Nhân vội đáp lời:
-Mayday, Mayday, Mayday, Lạc Long 389 nghe bạn rõ.
Mọi người ai nấy mừng rỡ, anh Chuẩn Úy lo lắng hỏi Nhân:
-Liệu họ có bốc mình ngay chiều nay không Trung Úy?...
Chàng gật đầu đáp:
-Hy vọng có chúng tôi ở đây, họ sẽ cố gắng bốc ngay chiều nay.
Chiếc máy bay L-19 đã nghe được tín hiệu của chàng, nên hỏi tiếp:
-Các bạn có thấy chiếc tàu bay nào trên không phận không? Nhân đáp lại:
-Chúng tôi đang ở bên duới, phiá cánh bên phải của anh.Nhân kêu mọi người:
-Mọi người trải các tấm panô vải màu cam lên trên các tàng cây để đánh dấu vị trí của mình. Xong Nhân gọi:
-Bạn có thấy những tấm vải panô màu cam chúng tôi đánh dấu không?
-OK... Chúng tôi đã nhận ra vị trí của bạn.
Chiếc L-19 reo lên trong chiếc radio tìm cứu, Nhân nói tiếp :
-Các bạn trên L-19 cho biết chỉ thị đi!...
Nhìn
con tàu như cánh chuồn chuồn trên vòm trời chiều ảm đạm dưới cơn mưa,
Nhân xót xa thương cảm cho những người bạn đang xả thân đi vào vùng binh
lửa, để cứu vớt bạn đồng đội mình.
-Lạc Long, yêu cầu các bạn
tiến về hướng Tây 50 mét, xong rẽ phải và chờ chỉ thị kế tiếp.Nhân thấy
trời sắp tối rồi, nên vội đáp :
-Lạc Long nghe năm. Nhưng tôi
yêu cầu bạn bay thấp, và định hướng cho chúng tôi di chuyển thì nhanh
hơn. Bạn nghe rõ trả lời?... Sau vài phút chờ đợi, chiếc L-19 bay thấp
qua đầu Nhân để chỉ hướng ra bãi bốc. Mọi người cùng chạy vội theo hướng
chỉ dẫn này. Bãi bốc là một vùng đất khá rộng, chung quanh còn thấy các
hố bom. Nhân và mọi người lựa một chỗ khá trống trải để làm bãi đáp.
-Lạc Long, bạn cho thả trái khói để trực thăng đến bốc các bạn
-Lạc Long, nghe năm trên năm.
Người
trưởng toán Lôi hổ nghe theo liền tung ra trái khói đỏ, rồi một người
nữa tung thêm một trái khói đỏ khi nghe tiếng trực thăng tiến lại gần.
-L-19, chúng tôi đã đánh dấu khói đỏ tại bãi đáp.
-Lạc Long, trực thăng đã thấy bãi đáp. Chúc các bạn An Lành trở về.
-L-19, cám ơn sự giúp đỡ của bạn.
Nhân
quay lại nhìn những người đồng hành với mình, Ðại và Tài bám sát kế
bên, trong khi đó toán Lôi Hổ canh gác bãi đáp. Nhân nhìn đồng hồ đã 7
giờ 50 tối, chỉ cần 10 phút nữa là trời sẽ tối hẳn, sẽ không còn sự an
toàn để việc thực hiện việc tìm cứu như thế này. Nhân e ngại nhìn chiếc
trực thăng đang tiến vào bãi đáp chật hẹp, bên dưới nhiều cây con lô nhô
chĩa ngang chĩa dọc. Chiếc trực thăng tìm cứu từ từ hạ xuống, nhưng vẫn
giữ ở vị thế hovering, để cả chín người cùng leo lên: Nhân, Tài, Ðại và
sáu anh lính Lôi Hổ sau cùng đã lên tàu. Các anh em cơ-phi và xạ thủ
trên tàu clear chung quanh để tàu cất cánh, và họ cũng không quên bắn
hằng loạt đạn M60 vào bìa rừng, để uy hiếp.
Nhân
nhìn qua ghế lái thấy Trung Úy Nguyễn Ðình Minh, trưởng phi cơ và Lâm
Minh Tuấn hoa tiêu phó. Khi tàu lấy được cao độ an toàn, Minh báo cáo
trên vô tuyến xong rồi trao cần lái cho Tuấn. Minh nhìn mọi người tươi
nụ cười hiền hòa. Minh quay ra sau bắt tay Nhân và Chuẩn Úy Liêm trưởng
toán Lôi Hổ đang đứng sau lưng ghế lái. Tàu đổi hướng đi thẳng về Pleiku
thay vì về đáp tại Kontum.
Miêng
mang trong những kỷ niệm, Nhân quên cả thực tại, thời gian và không
gian, quên cả sự hiện hữu của các hành khách trên chuyến C47 chiều nay.
Bên cạnh anh cô Hoá vẫn thăm dò những cử chỉ và chờ đợi, rồi nàng cất
tiếng:
- Anh đang miêng mang chuyện gì mà nét mặêt buồn vậy?...Nhân như được đánh thức trở lại với thực tại, và đáp lời cô gái:
-
Tôi đã nghĩ về sự mất mát trong chiến tranh, và những chia cách của
những người tình của “Lính”, và gia-đình của họ qua một phi vụ hai tuần
trước đây.
- Anh kể lại cho Hoá nghe với.
Chàng gật đầu
như thoả thuận. Chàng hứa hẹn với Hoá là sẽ kể trong những ngày ghé Huế,
về những kỷ niệm trong phi vụ ấy, một chuyến bay với bao hiểm nguy, đã
mất đi một người bạn - một chiến hữu và một con tàu. Chiếc C47 bắt đầu
giảm tốc độ và chuẩn bị để đáp, con tàu sau khi lượn một vòng qua thành
phố đã hạ cánh đáp nhẹ nhàng trên phi đạo, và đang tiến qua taxiway để
vào đậu cạnh khu hàng hoá của trạm Hàng Không Quân Sự Ðà Nẵng. Hành
khách theo nhau xuống tàu, Nhân chợt thấy một chiếc xe pickup màu xanh
Không Quân chạy ra, chàng nhận ra Trung Úy Kim, một người bạn cùng khoá
7/68 Không Quân, anh cho xe chạy gần lại. Nhân nói nhỏ với Hoá:
-
Hoá chờ một chút, để tôi nhờ anh Kim đưa chúng mình ra phố. Nàng gật
đầu, và cố nán lại gần bên chàng thay vì đi theo những hành khách để đi
vào trong.
Kim thấy Nhân cùng cô gái nên reo lên chào hỏi:
- Anh Nhân khoá 7/68 KQ đó phải không? Nhân trả lời:
- Nhân đây, Anh khoẻ không?
Kim gật đầu và nói:
-
Anh chị đứng đây chờ tôi một chút nghe, để tôi ghé qua nói với phi hành
đoàn, đểø cho hành khách lên, và họ sẻ bay trở về lại Sài Gòn ngay.
Nhân ghé qua Hoá nói:
- Anh Kim là bạn cùng nhập ngũ vào Không Quân, và hiện là trưởng trạm Hàng Không Quân Sự của phi trường Ðà Nẵng.
Nàng cúi đầu chào:
- Hoá chào anh Kim.
Kim chào và tiến về phiá phi hành đoàn vừa xuống tàu. Nhân hỏi thăm nàng:
- Chiều nay em về đâu?
Hoá trả lời:
- Em định ghé lại nhà người bà con ở đường Phan Thanh Giản, và sáng mai em đón xe ra Huế, còn anh?... Chàng trả lời:
- Tôi đi thăm mấy người bạn, và hẹn gặp lại Hoá tại Huế.Hoá viết điạ chỉ của gia-đình ở Huế trên tấm giấy nhỏ và đưa cho chàng:
- Ðây là điạ chỉ của em ở Huế, khi anh ra Huế mời anh ghé thăm.Chàng nhận mảnh giấy nhét vào túi áo bay và nói:
- Ngày mốt anh (bổng dưng chàng đổi cách xưng hô) ghé lại được không?
Nàng trả lời:
- Dạ được, em sẽ chờ anh...Chàng hứa hẹn:
-
Anh sẽ đưa em đi thăm vùng Kim-Long, Thiên-Mụ và ghé quán bánh bèo bên
dưới chân đồi Thiên-Mụ.Nàng cũng không quên nhắc chàng:
- Và nhớ
kể lại chuyến phi vụ làm anh buồn nữa nghe, em chờ anh đó.Nhân gật đầu
và đưa tay ra – như lối bắt tay của lính – Hoá cũng đưa tay ra bắt và họ
ngầm như có một thoả ước. Nhân thấy xe của Kim tiến lại gần chào nói:
- Nhân và chị lên xe, tôi đưa ra phố...
Nhân và Hoá gật đầu cảm ơn, và ngồi vào băng ghế phía trước với Kim, xong chàng lên tiếng hỏi Kim:
- Anh ở lại làm việc trể quá vậy!
Kim đáp lại:
-
Anh chị biết không, giờ giấc của chúng tôi bất thường lắm, chúng tôi
tùy thuộc vào phương tiện theo các chuyến bay ghé đáp và rời Ðà Nẵng, để
xếp đặt di chuyễn hàng hóa, quân nhân và gia-đình.Kim nói tiếp:
-
Tôi đã liên lạc máy và cho hành khách ra tàu rồi. Nhân thấy một xe buýt
chở hành khách tiến về chiếc C47. Kim nán chờ cho đến khi các hành
khách lên tàu xong, chiếc C47 đóng cửa và mở máy cất cánh lúc ấy Kim mới
cho xe chạy, chàng quay qua:
- Xin lổi Nhân và chị nghe, tôi đã bắt hai người phải chờ, anh chàng cũng dí dỏm:
- Lâu quá hôm nay mới được làm tài xế cho ông bạn phi-công và chị đây!...Nhân xoay qua:
- Anh xong việc chưa? Nếu xong chúng ta ghé ra phố chơi được không anh Kim?...Kim trả lời:
- Tôi sẽ đưa anh chị đi!...
Hoá xen vào:
- Xin anh cho Hoá xuống đường Phan Thanh Giản, để hai anh chuyện trò lâu ngày gặp lại!...Nhân cũng phụ hoạ vào:
- Anh Kim, chắc Hoá cũng mệt với chuyến bay vưà rồi, anh chiều theo ý của cô, sau đó chúng ta đi phố.
Kim Tiếp:
- Tiếc quá, mấy khi gặp được Nhân và chị đây!...
Nhân tiếp lời cho Hoá:
-
Không sao, còn nhiều dịp mà - phải không Hoá?...Kim cho xe rẽ qua đường
Phan Thanh Giản, Hoá chỉ một căn phố gần ngã tư, Kim hiểu ý và tấp vào
lề; dừng lại trước căn phố. Nàng cất tiếng:
- Hoá chào tạm biệt; hai anh đi chơi vui nghe, Hoá chào anh Kim...
Nhân vói tay qua mở cửa xe, Nàng và Nhân bước xuống. Nàng quay qua Nhân:
- Ngày mốt em chờ anh tại nhà mẹ em ở Huế, anh nhớ nghe?...
Nhân
gật đầu, đưa tay ra bắt, cô nàng cũng đưa tay ra bắt và siết nhẹ với
đôi mắt long lanh, và nụ cười hiền hoà. Chờ cho cô gái khuất vào trong
nhà xong, Nhân lên xe, Kim cho xe chạy ra bến Bạch Ðằng và đậu bên một
quán cặp bờ nước. Hôm ấy cả hai đã có dịp chuyện trò về những buồn vui
của đời lính, về thân phận của mình trong từng vị trí hiện hữu, Kim cũng
kể lại những cảm nghĩ vui buồn, và nhất là những mất mát mà anh đã
chứng kiến trong những trận pháo kích vào phi trường vào đơn vị của anh.
Hôm nay gặp lại bạn cũ họ đã vui tạm qua một chầu rượu, đễ rồi sau đó
ai nấy trở lại với thực tại, với bổn phận và trách nhiệm của mình.
Trong
hơi men Nhân nhìn ra bờ nước nơi những ánh đèn chập chờn, chàng lại đắm
vào những miêng mang của phi vụ hiểm nguy trước đây, nhìn qua bóng đêm
nơi xa kia là dảy Trường Sơn, phiá xa xa thành phố nhà nhà đã lên đèn.
Trên trời cao những vì sao đã lấp lánh, bên dưới là dãy Trường Sơn, với
những bờ rừng âm u đang chìm khuất trong bóng đêm đen như mực.
Nhân
vẫn không tưởng tượng được phi vụ hiểm nguy ấy là có thật. Trung Úy
Phan Văn Phương đã vĩnh viễn nằm lại dưới cánh rừng âm u kia. Ở Sàigòn,
vào lúc này, vẫn còn một cô giáo đang chờ đợi Phương trở về, với lời ước
hẹn sẽ cùng xây tổ ấm nơi phố thị vào dịp hoán chuyển cuối năm. Giờ đây
người Không quân tác chiến này không bao giờ thực hiện được lời ước hẹn
này với cô!...
Chiến tranh và số mệnh đã lấy đi tất cả những ước
hẹn của Phương và một cô giáo đang mong chờ Phương. Chiến tranh cũng
đang thản nhiên lấy đi một người bạn hiền của Nhân, và đang đổ sự tang
tóc oan nghiệt đến gia đình Phan Văn Phương!.... Trung uý Phan Văn
Phương bình thản, xuôi tay trong con tàu của mình, sau một phi vụ không
hề biết trước được lúc kết thúc. Phan Văn Phương để lại sinh mạng của
mình ở chiến trường Tây Nguyên, như bao anh hùng của thời đại, Nguyễn
Ðình Bảo, Nguyễn văn Ðương, và nhiều người khác nữa ...
Những anh
hùng không tiếc một điều gì cho đất nước, cho dân tộc, cho những chiến
tích muôn đời nơi vùng biên giới này. Nguyện cầu cho Phan Văn Phương sẽ
hoá thành một loài chim trên vòm trời xanh thật an bình. Nơi vùng trời
này sẽ không còn hận thù, không còn những nổi niềm đau xót về đất nước,
về thân phận con người, về số phận quá mong manh trước chiến tranh và
bom đạn điêu linh.
Phan Minh
kính thưa,
ReplyDelete-Quý Niên Trưởng NKT, PD 219, MACVSOG.
-Anh Em và gia đình thân kính
Thật bất ngờ nhận được tin rất buồn từ quê nhà do anh Hà Đức Lợi chuyển đến báo tin anh Phạm Thiên Vũ , Toán Mississippi thuộc Chiến Đoàn I Xung Kích (CCN) đã giả từ gia đình và anh em để về lòng Đất Mẹ Vietnam ngày 12 tháng 5 năm 2021.
Hiện nay tại Hoa kỳ và toàn thế giới đang chống trả sinh tử với bệnh dịch Vũ Hán nói chung, và riêng tại quê nhà thì bệnh dịch Vũ Hán càng bùng khắp khác nơi gây bao tang thương cho đồng bào đã khó lại càng khó khăn hơn . Việc ra đi của anh Phạm Thiên Vũ không những gây đau đớn cho mọi người mà cũng tạo thêm nhiều khó khăn cho tang quyến và việc anh em chúng ta hiện nay đang ở Hải Ngoại có thể chia xẻ với tang quyến ngoài việc phân ưu chia buồn, cũng cần và thiết thực hơn xin anh em mỗi người cố phụ góp 1 tay giúp đỡ cho tang gia được chừng nào hay chừng ấy.
Chúng tôi cũng xin kính đề nghị như sau:
1/. Xin Hãy gom sự giúp đỡ chung với nhau, để có thể có được số tiền bớt khiêm nhường, và thời gian góp tay đề nghị trong hạn 10 ngày từ hôm nay cho đến ngày Chúa Nhật 22 tháng 5 năm 2021 .
2/. Xin anh Phạm Hòa vui lòng nhận tiền góp tay giúp đỡ từ anh em và sau đó
xin chuyển đến tang quyến nếu được, và nếu anh không phản đối tức là anh đồng-ý, xin anh em vui lòng liên lạc anh Phạm Văn Hòa dưới đây.
hoavanpham@yahoo.com (Email và Paypal)
Zelle 310-245-2284
3/. Tình hình kinh tế ở đâu hiện nay cũng đều "gạo châu củi quế" và tại Vietnam thì lại càng bi đát hơn, xin anh em cố gắng giúp cho và nếu gom bi đạt được 4 hàng số ($1,000 USD) giúp cho tang quyền thì chắc khắp đất trời sẽ đều cảm thấy ấm lòng .
Chân thành cám ơn sự quan tâm của Quý Niên Trưởng và Quý Huynh Đệ khắp nơi
Trân trọng,
Lâm N. Chiêu
Sở BCH/NKT
Cựu Liên Toàn Trưởng CD2XK/CCC.
P.S. Gia đình tôi xin góp $100 giúp tang quyến anh Phạm Thiên Vũ.