Trần Gia Phụng (Danlambao) - Gần
đây, vào cuối năm 2012, ở trong nước xuất hiện bộ phim tài liệu dài 12
tập, mỗi tập dài 30 phút, nhan đề là “Mậu Thân 1968” của đạo diễn Lê
Phong Lan do Trung Tân Phim Tài Liệu và Phóng Sự của Đài Truyền Hình
Việt Nam, phối hợp với hãng phim Truyền Hình Bản Sắc Việt Nam sản xuất,
đã trắng trợn chối bỏ sự thật, thay trắng đổi đen, nhằm xóa bỏ tội ác CS
trong vụ tàn sát Tết Mậu Thân. Dư luận dân chúng Huế đã lên án gay gắt
bộ phim nầy. Dù CS luôn luôn chủ trương bóp méo lịch sử để chạy tội; dù
những nấm mồ dưới lòng đất có thể đã bị tiêu hủy qua thời gian; nhưng
những nấm mồ trong tim dân chúng Huế và dân chúng Nam Việt Nam vẫn còn
đó. Lịch sử vẫn còn đó. Làm sao CS chạy tội được trước lịch sử! “Trăm
năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”
*
1. Thiệt hại về nhân mạng và tài sản
Theo thống kê của Bộ Tổng tham mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH),
cho đến cuối tháng 3-1968, tổng số tử vong trên toàn lãnh thổ VNCH của
các bên lâm chiến trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân (1968) của cộng
sản (CS) là:
VNCH: 4,954 sĩ quan và binh sĩ, 14,300 thường dân. (Trong số thường dân nầy, Huế mất khoảng trên 2,000 người.)
Cộng sản 58,373 sĩ quan và binh sĩ.
Hoa Kỳ: 3,895 sĩ quan, binh sĩ và nhân viên Hoa Kỳ (gồm tất cả quân binh chủng).
Đồng minh: 214 sĩ quan và nhân viên Đại Hàn, Úc, Tân Tây Lan và Thái Lan
trong các phái bộ viện trợ quân sự tại VNCH.(Phạm Văn Sơn, sđd. tr. 35.)
Số 14,300 thường dân tử nạn là những người đã được khai báo, kiểm kê,
trong khi đó còn rất nhiều người mất tích, chết không được khai báo,
kiểm kê, nhất là những người ở thôn quê, trong những vùng do cả hai bên
(VNCH và CS) kiểm soát.
Trong cuộc tổng tấn công của CS nhân dịp Tết Mậu Thân, tổng số thiệt hại
về nhà cửa ở các thành phố ước lượng khoảng 4,5 tỷ đồng VNCH (lúc bấy
giờ) theo đó: 84,983 nhà bị hư hại từ 50 đến 100%, 30,343 nhà thiệt hại
tới 50%. Riêng tại Sài Gòn, 18, 507 nhà bị thiệt hại từ 50% đến 100%.
(PTGDVNHN, sđd. tr. 222. Sách nầy trích số liệu trên đây từ sách The
Vietcong Massacre at Hue của bác sĩ Elje Vannema, New York: Nxb. Vintage
Press, 1976.)
Theo Trung tâm Khuếch trương Kỹ nghệ, sự thiệt hại trong khu vực kỹ nghệ
lên tới 4,541,800,000 đồng đối với 84 cơ xưởng. Riêng ngành dệt, thiệt
hại 2,985,400,000 đồng. (Đoàn Thêm, 1968 Việc từng ngày, sđd. tr. 129.)
2. Quân sự
Cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, khác với chiến tranh du kích, là sự
đối đầu trực tiếp công khai giữa quân lực VNCH và lực lượng CS trong đó
có bộ đội chính quy Bắc Việt Nam và MTDTGP. Cuộc tổng tấn công của CS
thật sự đã đạt được yếu tố bất ngờ khá cao. (James J. Wirtz, sđd. tr. 28.)
Dầu tổng tấn công bất ngờ, CS hoàn toàn thất bại, không chiếm được các
thành phố như chủ trương ban đầu của CS. Nhiều nơi, CSVN phải rút về mật
khu, bưng biền, rừng núi, hay tránh sang biên giới Lào và Cao Miên.
Tài liệu CSVN sau nầy công khai xác nhận sự thất bại nặng nề của họ. “Cuối
tháng 9 [1968], hoạt động quân sự của ta [CSVN] đã ngừng lại. Sau một
thời gian dài liên tục tấn công vào đô thị - chỗ mạnh của địch trong
điều kiện chúng đã bố phòng, lực lượng ta bị tiêu hao, bổ sung không
kịp, tiếp tế khó khăn, phải rút về củng cố...” “Lực lượng vũ
trang bị tiêu hao không được bổ sung. Tiếp tế lương thực rất khó khăn. Ở
Tây nguyên, toàn bộ số gạo còn lại của năm 1968 chỉ còn phần ba so với
số lượng tồn kho năm 1967. Dự trữ lương thực đến giữa năm 1969 chỉ đủ
nuôi bộ đội ta trong khoảng một tuần...” (Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh
Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, tr. 35 và
tr. 57. Lưu Văn Lợi là nhân viên phái đoàn BVN tại hội nghị Paris, sách
viết ở trong nước. Bản in đưa bán ra nước ngoài, không đề nơi và năm
xuất bản.)
Quân lực VNCH tuy lúc đầu bất ngờ, nhưng nhờ khả năng phản ứng nhanh lẹ,
nên đã mạnh mẽ chận đứng được những đợt tấn công của CS khắp nước, gây
thiệt hại lớn lao cho CS. Con số 58,373 cán binh CS tử thương có thể còn
thấp so với số thực sự CSVN mất mát.
Sau vụ Tết Mậu Thân, khi được tổng thống Hoa Kỳ gởi sang thị sát chiến
trường Việt Nam ngày 23-2-1968, tướng Earle G. Wheeler, trong báo cáo
gởi về Washington D.C., đã nhấn mạnh: “Các lực lượng võ trang Việt Nam Cộng Hòa đã kháng cự cuộc tấn công ban đầu với một sức mạnh thần kỳ.” (Tường trình của tướng Earle G. Wheeler được tướng Yves Gras (người Pháp) trích dẫn trong bài "L'autre armée Vietnamienne, L'engagement des Vietnamiens dans la guerre d'Indochine (1945-1975)", đăng trong sách Indochine: Alerte à l'histoire của một nhóm tác giả, Académie des Sciences d'Outre-Mer
[Viện Hàn Lâm Khoa Học Hải Ngoại], Institut de l'Asie du sud-est [Viện
Nghiên Cứu Đông Nam Á] và Association nationale des anciens d'Indochine
[Hiệp Hội Quốc Gia Cựu Chiến Binh Đông Dương] đồng xuất bản, Paris,
1985, tr. 279.)
Khi bình luận về trận Mậu Thân, ông Yves Gras, một tướng lãnh Pháp, cũng đã viết: “Quân
đội Nam Việt giữ vai trò chủ yếu trong các trận đánh bẻ gãy cuộc tấn
công của phương Bắc trong Tết Mậu Thân vào tháng 2 năm 1968." (Yves Gras, bài đã dẫn.)
Phía CS cũng rất bất ngờ về sức chiến đấu bền bĩ của quân lực VNCH. (Leo
J. Daugherty, Gregory Louis Mattson, NAM, a Photographic History, New
York: MetroBooks, 2001, tr. 314.) Một viên tướng CS tham gia trong cuộc
tổng tấn công Tết Mậu Thân đã thú nhận: “Nhưng mặt khác, trong Tết
Mậu Thân, ta không đánh giá đúng về tương quan lực lượng ta địch cụ thể
lúc ấy, không thấy hết khả năng còn lớn của địch và điều kiện còn hạn
chế của ta, đề ra yêu cầu quá cao sức thực tế ta có...” (Trần Văn Trà, Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm, TpHCM: Nxb. Văn Nghệ Thành Phố, 1982, tr. 57.)
Một điều tàn ác là sau khi CS rút lui, dân chúng phát hiện nhiều xác
binh sĩ CS bị cột vào các ổ súng phòng không bằng xích sắt, đặt trên
hoàng thành bao chung quanh thành nội Huế, nghĩa là binh sĩ CS không thể
trốn chạy được, mà phải chiến đấu tại chỗ cho đến chết. (Nhiều người
viết, Technology and the Air Force: A Retrospective Assessement, Washington D.C: Air Force History and Museums Program, United States Air Force, 1997, tr. 129.)
3. Chính trị
Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân của CS vào các thành phố VNCH tạo ra những phản ứng khác nhau tại Việt Nam và Hoa Kỳ.
Cộng sản vi phạm quyết định hưu chiến, mở cuộc tổng tấn công trong dịp
Tết thiêng liêng trên toàn cõi miền NVN, tàn sát dân chúng vô tội làm
cho dân chúng kinh sợ. Chẳng những dân chúng không hưởng ứng lời kêu gọi
tổng khởi nghĩa của CSVN, mà dân chúng còn trốn tránh vùng CS tạm
chiếm, bỏ chạy về phía quân đội VNCH và quân đội Mỹ. Uy tín của quân đội
VNCH và chính phủ VNCH lên cao trong lòng dân chúng Việt Nam.
Ở ngoài nước, cuộc tổng tấn công bất ngờ Tết Mậu Thân (1968) của CS đã
gây một tiếng vang lớn trên thế giới, tạo một đòn tâm lý khá nặng đánh
vào dân chúng Hoa Kỳ. Việc quân đội CS đột kích vào các thành phố NVN
khiến cho dân chúng Hoa Kỳ, ở xa Việt Nam nửa vòng trái đất, nghĩ rằng
tình hình quân sự VNCH quá xấu, nên họ lo ngại về số phận của thân nhân
trong quân đội Hoa Kỳ đang chiến đấu tại Việt Nam.
Đó là cơ hội tốt cho phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ hoạt động mạnh.
Những gia đình có thân nhân thuộc thành phần động viên, tham gia tích
cực các cuộc biểu tình, vận động rút quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam.
Phong trào phản chiến Hoa Kỳ luôn luôn khuếch đại và bôi đen những hoạt
động của quân đội Đồng minh và VNCH.
Ví dụ tấm hình đại tá Nguyễn Ngọc Loan, tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia
xử tử tại chỗ ngày 1-2-1968 một cán binh CS trên đường Sư Vạn Hạnh Sài
Gòn, gần chùa Ấn Quang. Đại tá Loan nổi giận vì nguyên cả gia đình của
một sĩ quan Cảnh sát, thuộc quyền của ông, ngay trước đó đã bị cán binh
nầy giết chết. (Leo J. Daugherty, Gregory Louis Mattson, NAM… sđd. tr. 266.)
Tấm hình nầy do Eddie Adams chụp. Do tấm hình nầy, Eddie Adams được giải
Pulitzer về báo chí ở Hoa Kỳ năm 1969. Tấm hình nầy gây những ảnh hưởng
bất lợi về chính trị cho VNCH. Cộng sản và phản chiến Hoa Kỳ lợi dụng
tấm hình nầy để tuyên truyền đòi Hoa Kỳ rút quân.
Về sau, tác giả tấm hình, Eddie Adams đã viết trên tuần báo Time, số Chủ nhật 24-6-2001 như sau: “Bức ảnh này đã thực sự làm xáo trộn đời ông [Nguyễn Ngọc Loan]. Ông
không bao giờ trách cứ tôi. Ông nói nếu tôi không chụp tấm hình này,
thì người khác cũng sẽ chụp, nhưng tôi cảm thấy áy náy với ông và với
gia đình ông trong một thời gian dài. Tôi vẫn giữ liên lạc với ông. Lần
cuối cùng chúng tôi nói chuyện với nhau cách đây khoảng sáu tháng, khi
ông rất yếu. Khi được tin ông mất, tôi gửi hoa phúng điếu và đã viết,
"Tôi xin lỗi. Có những giọt nước mắt trong mắt tôi.[Tôi đang khóc ông.]"
Trong khi đó, phong trào phản chiến Hoa Kỳ cố tình bỏ qua những cuộc
khủng bố và tàn sát của CSVN, nhứt là vụ tùng xẻo dã man và chôn sống
người tại Huế trong Tết Mậu Thân. Một ký giả Đức có mặt tại Huế, chứng
kiến cảnh một toán phóng viên truyền hình Mỹ thờ ơ nhìn các mồ chôn tập
thể. Khi có người hỏi tại sao không quay cảnh các mồ tập thể nầy thì một
phóng viên Mỹ trả lời: “Chúng tôi đến đây không phải để quay phim tuyên truyền chống cộng.” (UweSiemon-Netto, Đức - A repoter’s love for a wounded people, California: 2013, tr. 252.)
Khi rút lui, quân CS đã đưa đi theo một số nhân vật tên tuổi như thượng
tọa Thích Đôn Hậu (chùa Từ Đàm, Huế), các ông Lâm Văn Tết, Trịnh Đình
Thảo (Sài Gòn)...
4. Những thay đổi quan trọng
Để tăng cường sức mạnh quân sự, tướng Westmoreland xin chính phủ Mỹ tăng
viện khẩn cấp một trung đoàn TQLC và một lữ đoàn Nhảy dù thuộc sư đoàn
82. Ngày 13-2-1968, bộ Quốc phòng Mỹ chấp thuận tăng 10,500 quân. (John
S. Bowman, sđd. tr.20.)
Mười ngày sau, khi đại tướng tham mưu trưởng Liên quân Earle Wheeler đến
Việt Nam, ngày 23-2-1968, đại tướng Wesmoreland đưa ra đề nghị tăng
thêm 206,000 quân đến Việt Nam, nhưng đề nghị nầy không được chấp thuận.
(Stanley Karnow, Vietnam, a History, New York: The Viking Press, 1983, tr. 551.)
Cũng trong ngày 23-2-2968, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh thay hai
tư lệnh quân đoàn cùng một lúc. Thiếu tướng Lữ Lan thay thiếu tướng Vĩnh
Lộc làm tư lệnh Quân đoàn II, và thiếu tướng Nguyễn Đức Thắng thay
thiếu tướng Nguyễn Văn Mạnh giữ chức tư lệnh Quân đoàn IV.
Ngày 27-2-1968, tướng Edward Lansdale (trở lại Việt Nam làm việc tại Tòa
đại sứ Mỹ tại Sài Gòn từ 1965), đề nghị với đại sứ Mỹ là Bunker giúp
củng cố quyền lực tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, nhằm chấm dứt tình trạng
lưỡng đầu trong chế độ VNCH, tức bắt đầu giảm quyền của phó tổng thống
Nguyễn Cao Kỳ. (Chính Đạo, Mậu Thân..., tr. 348.)
Trong tháng 2-1968, chính quyền VNCH ra lệnh “bảo vệ an ninh”, một hình
thức giam lỏng, một số nhân vật chính trị, như thượng tọa Thích Trí
Quang, đại đức Thích Hộ Giác, đại đức Thích Liễu Minh, luật sư Trương
Đình Du, Âu Trường Thanh, Trần Thúc Linh, Hồ Thông Minh (mới từ Pháp
về), nhằm tránh bị CS lợi dụng, theo giải thích của chính quyền. Ngày
11-4-1968, Hồ Thông Minh và Trương Đình Du được thả ra. Hồ Thông Minh bị
trục xuất về Pháp, còn Trương Đình Du bị bắt lại ngày 1-5-1968. Việc
“bảo vệ an ninh” cho các tu sĩ chấm dứt ngày 30-6-1968. (Đoàn Thêm, 1968 Việc từng ngày, sđd. tr. 226.)
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, Robert McNamara, từ chức từ ngày
29-11-1967, nhưng sau biến cố Tết Mậu Thân mới rời chức vụ ngày
29-2-1968, và được Clark Clifford thay thế. (Clifford làm việc đến khi
tân tổng thống Richard Nixon nhận chức 20-1-1969.)
Trong cuộc họp báo ngày 22-3-1968, tổng thống Johnson tuyên bố hai sự
thay đổi quan trọng: 1) Sẽ đưa đại tướng Westmoreland lên làm tham mưu
trưởng Lục quân Hoa Kỳ từ ngày 2-7-1968 và đại tướng Creighton W. Abrams
sẽ thay thế Westmoreland tại Việt Nam. 2) Đô đốc Ulysse Grant Sharp, tư
lệnh lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương sẽ giải ngũ trong tháng 7-1968 và
đô đốc John McCain, Jr. sẽ lên thay. (Đoàn Thêm, sđd. tr. 103.)
Về phía CS, do MTDTGP thiệt hại nặng nề trong cuộc tổng tấn công. Lãnh
đạo đảng LĐ ở Hà Nội nhân cơ hội nầy, đưa cán bộ và bộ đội từ BVN vào
NVN điền thế, củng cố và điều khiển chặt chẽ MTDTGP. Nói cách khác, từ
đây MTDTGP không còn những thành phần tuy đối kháng với chính thể NVN,
nhưng chưa hoàn toàn quy phục Hà Nội. Cũng từ đây, CS Hà Nội nắm phần
điều khiển 100% MTDTGPNVN.
Tuy CS thất bại về quân sự trong cuộc tổng tấn công, nhưng CS đã gây
được tiếng vang trên thế giới và đặc biệt tại Hoa Kỳ, nơi đang diễn ra
phong trào phản chiến, đòi hỏi chính phủ Hoa Kỳ phải rút quân khỏi Việt
Nam. Phong tào phản chiến Hoa Kỳ sẽ rất dữ đội trong năm sau, 1969.
Kết luận
Lúc đầu, đảng LĐ tức đảng CSVN tìm cách chối bỏ trách nhiệm về cuộc tổng
tấn công Tết Mậu Thân. Trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi của một ký giả
Tây phương vào năm 1969, bộ trưởng bộ Quốc phòng Bắc Việt Nam lúc đó,
đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chối rằng Hà Nội không tổ chức tổng tấn công
Tết Mậu Thân: "Chúng tôi không dính gì tới chuyện đó. Chuyện đó do Mặt trận [Dân tộc Giải phóng] thực hiện." (Don Oberdorfer, sđd. tr. 45. Nguyên văn: "We had nothing to do with it. The [National Liberation] Front put it on.")
Tuy nhiên, theo những tài liệu càng ngày càng được phát hiện rõ ràng,
cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân hoàn toàn do đảng LĐ ở BVN chủ trương.
Đảng LĐ bất kể truyền thống cổ truyền về ngày Tết dân tộc, không tôn
trọng những cam kết về hưu chiến, bất ngờ tổng tấn công để giành lấy
thắng lợi. Đảng LĐ không thành công trên chiến trường. Miền NVN vẫn đứng
vững. Đảng LĐ không tổ chức được cuộc tổng khởi nghĩa.
Dân chúng không hưởng ứng cuộc tổng khởi nghĩa của CS, bỏ vùng CS tạm
chiếm, chạy về phía quân đội VNCH. Dân chúng lại ghê sợ những sáng kiến
giết người dã man của cán bộ CS, nhất là việc chôn sống người. Cuộc tổng
tấn công và tàn sát của CS là một thông điệp đỏ gây khủng bố và khiếp
sợ cho dân chúng thành phố NVN đối với CS. Từ đây, chẳng những dân chúng
nông thôn mà cả dân chúng thành phố cũng rất hãi hùng bàn tay sắt máu
của CS. Đó là lý do vì sao khi ra hải ngoại, một số người có thân nhân
bị CS tàn sát, không dám lên tiếng tố cáo CS, vì sợ bà con trong nước bị
CS giết tiếp.
Nói chung, dầu thất bại về quân sự, CS Hà Nội đã đạt được các dự tính
chính trị quan trọng qua biến cố Tết Mậu Thân, gây chấn động mạnh ở Hoa
Kỳ khiến những cuộc biểu tình phản chiến càng ngày càng gay gắt.
Một điểm cần ghi nhận thêm là để xóa dấu vết tội ác trong biến cố Mậu
Thân tại Huế, sau khi chiếm được miền Nam năm 1975, CS tuyên phong “liệt
sĩ” cho một số người bị CS giết, đổ tội cho “Mỹ Ngụy” chứ không phải CS
sát hại. Đểu đến thế là cùng. Gia đình những “liệt sĩ” nầy không dám từ
chối sự phong tặng vì sợ CS tàn sát thêm lần nữa.
Gần đây, vào cuối năm 2012, ở trong nước xuất hiện bộ phim tài liệu dài
12 tập, mỗi tập dài 30 phút, nhan đề là “Mậu Thân 1968” của đạo diễn Lê
Phong Lan do Trung Tân Phim Tài Liệu và Phóng Sự của Đài Truyền Hình
Việt Nam, phối hợp với hãng phim Truyền Hình Bản Sắc Việt Nam sản xuất,
đã trắng trợn chối bỏ sự thật, thay trắng đổi đen, nhằm xóa bỏ tội ác CS
trong vụ tàn sát Tết Mậu Thân. Dư luận dân chúng Huế đã lên án gay gắt
bộ phim nầy.
Dù CS luôn luôn chủ trương bóp méo lịch sử để chạy tội; dù những nấm mồ
dưới lòng đất có thể đã bị tiêu hủy qua thời gian; nhưng những nấm mồ
trong tim dân chúng Huế và dân chúng Nam Việt Nam vẫn còn đó. Lịch sử
vẫn còn đó. Làm sao CS chạy tội được trước lịch sử! “Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”
Hết
Những phần đã đăng bởi Danlambao:
(Toronto, 17-4-2016)
No comments:
Post a Comment