Friday, July 22, 2022

ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN: Chương 17/17 (Xuân Vũ) QUYỂN IV của THIÊN HỒI KÝ “VƯỢT ĐƯỜNG MÒN HỒ CHÍ MINH”

– 17 –

Cuối cùng rồi tôi cũng về tới Bến Tre. Mảnh đất đầu tiên tôi đặt chân lên là Thành Triệu hay Phú Túc gì đó. Lại phải vượt thêm một lần nữa sông Cửa Long. Bây giờ hết sông suối rồi nhưng gặp bom đạn tua tủa. Ngay buổi sáng, chúng tôi được chào mừng bằng một trận bom. Hai thằng chui đại xuống một cái hầm hoang ven đường khi phản lực đã trút loạt bom thứ nhất, tiếng miểng đạn bay veo véo bên tai. Tư Mô cũng như tôi không có kinh nghiệm trốn bom. Kháng chiến chống Pháp có bị trận nào. Nay bất ngờ nên lúng túng và chui ẩu. May mà có chỗ để chui. Ngồi dưới hầm nước ngập, tôi không hiểu gì cả. Cái hình ảnh một ông già Nam Kỳ lội Trường Sơn kiệt sức được đồng đội khiêng về đến ranh Nam Bộ thì tắt thở – hiện lên trong đầu tôi.

Khi dứt trận bom chúng tôi lóp ngóp bò lên. Mấy trái bom vàng lườm như cam Bố Hạ nằm lăn lóc trước miệng hầm. Nếu chúng không lười biếng, chịu khó lăn vài thước nữa ắt bõ cái công từ Mỹ được chuyên chở sang đây. Hai đứa chạy tránh ra. Anh giao liên, một cậu thanh niên non nhẽo cũng đã chui lên từ hang hố nào không rõ la thét trong màn khói:

– Coi chừng bom bi. Coi chừng bom bi !

Bom gì cũng coi chừng, đâu phải chỉ coi chừng bom bi ? Tôi đã biết loại bom này ở Trường Sơn rồi. Nó be bé xinh xinh như một món đồ chơi. Hai anh lính thấy một quả mắc trên cành, một anh lấy cây thọc xuống một anh đưa tay hứng như hái cam. Bom vừa rụng xuống cụp cánh lại và nổ. Bây giờ lại thấy cái thứ đồ chơi đó ở đây, không treo lủng lẳng trên cành cây mà lại nằm lăn lóc dưới đất. Hú vía! Trận bom bình thường. Nghĩa là kéo dài độ nửa tiếng đồng hồ. Không biết nó thấy cái gì dưới đất mà hì hục đánh dữ vầy.

Khi theo chân giao liên đi tới một quãng nữa thì thấy một chiếc cầu xi măng sụp. Bên cạnh đó là một chiếc đò máy đang cháy và chìm dần xuống nước, khói bốc đen cả một khúc đường. Cảm giác đầu tiên của tôi khi đặt chân lên đất Bến Tre quê nhà là Hà Nội nói láo, Trung ương nói láo, Mặt Trận nói phét. Trước khi đi, ông Nguyễn Văn Vịnh, chủ nhiệm ủy Ban Thống Nhứt, đến nói chuyện thì nghe rất xôm, nào ta đã giải phóng ba phần tư dân chúng, bốn phần năm đất đai. Bộ đội đi hành quân toàn bằng đò máy. Từ R xuống đây toàn chui rút trong rừng. Chỉ có một cái xóm nho nhỏ bán dăm bảy món hàng đón gió cho khách đi đường ở vùng Mỏ Vẹt, nhưng lại ở bên đất Miên. Khách đến đó mua sắm đồ vật chút đỉnh – chính yếu là kẹo bánh và gạo, cá khô, mắm để giằn bao tử- rồi mau mau trở về đất mình vì sợ tụi lính Miên bắt được tịch thu. Rõ là một lũ ăn trộm. Từ Hà Nội vô đây, tên họ cũng dấu kín, mua đồ cũng lén lút.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ ngày nay không giống thời chống Pháp, bộ đội và cán bộ đi đến đâu đồng bào đón tiếp rình rang, đãi đằng như đám giỗ. Bây giờ bộ đội cán bộ đi đến đâu nhà không vườn trống tới đó. Suốt hai ngày, tôi qua những trạm giao liên toàn đóng trong nhà hoang. Dân chúng lẩn tránh Giải Phóng. Vì Giải Phóng đi tới đâu phi cơ đại bác đến đó.

Tôi đi qua những làng mà trong kháng chiến tôi từng đến. An Thành, Thành Thới, An Thới, An Định, Bình Khánh, Phước Hiệp rồi Tân Trung.

Thời kháng chiến tôi đóng vai trò cán bộ tuyên truyền, lúc đó mới mười bảy tuổi mà hăng vô cùng, nói chuyện trước đồng bào cứ tưởng mình là đại diễn giả, vì luôn luôn được vỗ tay. Tôi học nghệ thuật diễn thuyết từ trại huấn luyện của Thanh Niên Cứu Quốc tỉnh của các anh Mạch Văn Tư, Trần Bá Hậu, Nguyễn Duy Hưng (cậu tôi). Bước chân lên tỉnh nhà thì tôi nhớ ngay đến các vị này, những người thầy chính trị và nghệ thuật đầu tiên của tôi. Không biết bây giờ họ ở đâu. Từ ngày Le Roy chiếm toàn tỉnh Bến Tre, dân tôi lưu lạc xuống miền Tây tới bây giờ tôi không còn nghe ai nhắc nhở tới họ nữa.

Những trang sử vẻ vang của tỉnh nhà đã được viết thêm nữa chăng? Tôi thấy niềm vui được trở lại quê hương thật là vô tận. Tôi nhớ những đồng hương bây giờ còn kẹt ở lại ngoài Bắc, nôn nả muốn về mà không được về hoặc không về được. Hai năm như một giấc chiêm bao dài vô tận. Hiện lên trong tôi hình dáng xơ xác của ông chủ tịch tỉnh Bến Tre: ông Đốc Huệ ở Giồng Trôm. Khi biết tôi sắp vô Trường Sơn, ông khóc và bảo: “Tao chắc nằm lại ngoài.” Đi mấy ngày liền, gặp cán bộ cũng đông trên đường dây, nhưng không có một người quen. Hình như không ai còn sống. Lớp chết đạn bom lớp tù tội, lớp chết trên đường về.

Thôi, được về tới đây là hạnh phúc rồi !

Khi anh giao liên dắt đoàn khách đi ngang ngã tư Cái Quao thì tôi nhớ thời đi học Mỏ Cày vô cùng. Những hàng me ngày xưa không còn. Thằng bạn học cũ không biết bây giờ ở đâu? Không thấy nó đi kháng chiến. Từ đây mà lên Mỏ Cày có sáu cây số, thế mà không đi được. Đi một quãng nữa thì tới chợ Cái Quao. Anh giao liên bảo đây là cái chợ Giải Phóng nhưng không ai dám tới đây mua bán gì. Chỉ vài ba mái lá xiêu vẹo, bên mấy cây me cháy nám đen và nhựa xám napalm dính đầy cành. Khách định ghé lại mua dăm món đồ dùng nhưng giao liên muốn bảo vệ khách nên giục đi mau. Đây là mảnh đất Giải Phóng nằm trong cái diện tích của Mặt Trận Giải Phóng kiểm soát đây chăng? Suốt trên đường đi tôi không thấy cái nhà nào còn nguyên. Những nhà giàu bị phá hoại thời trước không dựng lại được đã đành, nhà mới cất cũng không có, nhất là nhà vách gạch, nền đúc. Dân mình mạt rệp luôn từ sau 45 không ai còn có thể cất loại nhà đó nữa.

Đi ngang qua Bình Khánh, tới nhà ông Đỗ Phát Quan, nghị sĩ Quốc Hội, nhớ nhà ông huyện Nghĩa và ông Chủ Xạ, những ngôi nhà vĩ đại nhất trong vùng mà ngày xưa tôi có đến chơi với con cháu của họ bạn học trường quận với tôi. Tất cả đều chỉ còn trơ lại những cái nền. Trong kháng chiến Việt Minh phá nát, bây giờ Giải Phóng chui vào đống gạch vụn để trốn. Ngày xưa khi anh Mạch Văn Tư lên Thanh Niên Cứu Quốc Nam Bộ, anh Cao Thái Tôn lên thay thì cơ quan Thanh Niên Cứu Quốc tỉnh dời về đây, đóng muôn năm trong vùng này để anh bào chế thuốc Nam bán lấy tiền nuôi cơ quan. Bây giờ tôi không tìm thấy vùng đất đó nữa.

Đúng là một cuộc bể dâu.

Qua Bình Khánh đến Phước Hiệp. Ở đây có thằng bạn học trường quận, nghe nói nay nó làm tới tỉnh ủy. Anh nó là Xôi từng là cán bộ Thanh Niên Cứu Quốc, đi tập kết nhưng tôi không gặp.

Qua hết Phước Hiệp đến Tân Trung. Tân Trung là làng cuối cùng trước khi tôi đặt bước chân lên quê ngoại. Đây là một làng nhỏ nhưng lại có nhiều người làm quan. Bước chân tới đây, người tôi gặp đầu tiên là một nàng độ chừng hai mươi tuổi. Tôi nhận ra ngay và kêu đúng tên.

Hồi đi học trường quận tôi ăn trọ một nhà gần chợ, thì cô bé mới biết đi lẩm đẩm. Hai mươi mấy năm qua… bây giờ tôi vẫn nhận ra một cách dễ dàng. Cô bé rất ngạc nhiên. Tôi bèn kể lai lịch cho cô nghe. Cô càng ngạc nhiên hơn nữa. Tôi hỏi thăm cha mẹ cô thì mới hay ông bà đã qua đời. Hai mươi năm dù không có chiến tranh thì cuộc đời cũng thay đổi nhiều nữa là chiến tranh liên tục. Những con đường cái ngày xưa tôi đi không còn nữa. Tôi đi trên bờ ranh, trên lối mòn, nhảy mương và lội ruộng.

Đến trạm Giồng Cui thì Tư Mô ở lại. Đây là mé sông Hàm Lưông, một ngánh sông Cửu Long chảy qua tỉnh Bến Tre đổ ra biển. Trong ngôi chòi xơ xác ở ven sông, Tư Mô trỏ đường nước cuồn cuộn chảy mà lắc đầu:

– Tôi lại phải qua sông Cửu Long lần nữa.

– Tôi ghé lại thăm nhà ít ngày rồi qua sau. Tôi phải qua trình giấy giới thiệu của R cho tỉnh.

– Thôi chú đi về nhà nhé. Gặp lại gia đình xem sao. Gởi lời tôi thăm già Hưng.

Chúng tôi bắt tay nhau sơ sịa nhưng lòng thật ngậm ngùi. Tư Mô nhìn theo tôi bảo:

– Rồi mình sẽ gặp nhau, để bàn kế hoạch sáng tác.

Ven sông là rừng rậm rạp không nhà cửa. Ngày xưa bọn ăn trộm trâu ở những làng Minh Đức, Hương Mỹ, Cẩm Sơn đều đem trâu ra đây giấu để sau đó làm thịt hoặc bán cho bọn lái ở bên Cù Lao Ốc. Người chủ bị mất trâu thường tìm được ở đây những tấm da. Bây giờ cách mạng dùng dãy đất này để làm căn cứ. Vô hình trungcách mạng gần với bọn trộm cướp hoặc đi trùng dấu của chúng nó. Từ mé sông vào đến giữa làng tôi phải đi trên một con đường vắng teo, rợn người. Mỗi bước chân đi như dẫm lên một kỷ niệm, mỗi hơi thở hít vào như nghe những ngày xưa làm rộn rực cả lòng. Hai bên đường không còn nhà cửa. Dân tản ra ngoài đồng ở rải rác xa xa một cái nhà. Do đó ít khi tới lui và cũng do đó không còn tình lân xóm .nữa. Ngay cả sự đi lại bình thường cũng không còn. Hễ ra đường là người ta dớn dác, hối hả như sợ việc không may xảy ra cho mình.

Tôi đi một chập lâu thì đến một gân đường phóng qua ruộng về phía Cái Quao. Tôi sực nhớ ra đây là lộ Thợ Điếc. Ngày trước khi ở cơ quan Thanh Niên về thăm nhà tôi thường đi đường này. Nó rộng lớn xe bò đi được, bây giờ chỉ là một bờ ranh. Cách đó không xa là ngã ba Tân Trung. Ở đây đã từng xảy ra một trận đánh phục kích của phân đội Nguyễn Thái Học, giết hai Pháp, ba Việt gian. Vậy mà bản tin in trên tờ thông tin tỉnh tôi đã chép lại từng chữ một để đi tuyên truyền.

Những cây còng sum suê hai bên đường từng mang những thông cáo cách mạng ra lệnh bất hợp tác với giặc Pháp, ký tên chi đội trưởng chi đội 19 Đồng Văn Cống.

Tất cả đều không còn. Thời oanh liệt của dân vùng này đã biến mất. Cỏ cây như ngậm ngùi trong vắng lặng mênh mông. Lâu lâu mới nghe một tiếng gà đơn độc như nhắc cho tôi rằng trong cái chết vẫn còn sự sống.

Ngày xưa ở tại ngã ba này có nhà xe ngựa của ông Ba Đệ. Mỗi lần tôi từ nhà ra thăm ngoại tôi thì tôi thường được đi cùng cậu tôi lên thăm bà cụ ngoại tôi trên làng Cẩm Sơn. Tôi chỉ phải đi bộ một khúc ngắn từ nhà lên đến đây, rồi ngồi xe ngựa chạy toong toong trên đường đá đỏ. Chỉ chừng bốn cây số thôi nhưng quả là một cuộc du lịch kỳ thú. Bà cụ ngoại tôi đã tám mươi tuổi nhưng còn đọc được chữ mà không mang kiếng. Bao giờ tôi lên thăm cụ cũng cho tôi ít nhất là một đồng bạc trắng hoặc năm, sáu đồng hai mươi xu gọi là “góc tư.” Tôi túm vào khăn mù-soa xoắn lại và cầm tro tro trong tay. Với số tiền to lớn đó tôi và cậu tôi thừa sức thuê một cỗ xe ngựa khác về nhà.

Gần ngã ba, ở phía trong vườn là nhà dượng tôi. Hồi đó ông làm thôn trưởng. Tôi khéo léo hỏi dò anh giao liên thì được biết hiện giờ ông đang làm cai tổng, gọi là Tổng Cường. Nhưng tôi không nao vì tôi có hai mươi năm thâm niên cách mạng. Nó đủ bảo đảm cho lập trường của tôi. Tuy vậy tôi cũng tự nhủ thầm: Sao người thân của mình mà mình thấy xa cách ?

Càng đi vào mảnh đất quê hương yêu dấu tôi càng ngẩn ngơ. Không còn gì cả. Cả ngôi nhà thờ đồ sộ ngày xưa tôi vẫn thường đến đọc kinh cũng đã biến mất. Cách đó không xa là hai cái lò rèn ở ngay đầu cầu gọi là Cầu Vĩ bắc ngang qua rạch Tân Huề. Hồi cách mạng mới nổi lên, hai cái lò rèn này đã sản xuất vô số dao găm, phi tiêu, đoản kiếm cho dân quân cách mạng. Bây giờ cũng không còn thấy nữa. Tôi phải khó khăn lắm mới tìm được lối đi . Ở đầu cầu này năm 1946 anh Hoàng Trọng Liễn, một cán bộ xuất sắc của Thanh Niên Cứu Quốc quận Mỏ Cày, em ruột của giáo sư Hoàng Ngọc Bích đã bị Pháp đuổi bắn chết. Cách đó không xa là nhà của ông Lâm Thiên Tứ, một đại địa chủ trong vùng cũng đã bị tên đội Định ở bốt Cầu Mống bắt cùng với người con trai là Lâm Thiên Trường đem về chợ Cầu Mống trói vào gốc cây bắn chết và không cho gia đình lấy xác. . .

Những cái chết vô cùng oanh liệt ấy đã mở đường cho cách mạng tiến lên. Tôi đã rời xa con đường đó từ thời thiếu nhi đến bây giờ mới quay về được. Bao nhiêu kỷ niệm ấu thơ lẫn kỷ niệm kháng chiến bừng dậy trong đầu. Chân run rẩy bước nhanh, mắt phóng nhìn bốn phía vườn hoang. Không một bóng người thấp thoáng. Ngôi chợ làng không còn một cửa tiệm nào. Tất cả đều hoang tàn lạnh lẽo. Ngôi chợ đầy kỷ niệm ấu thơ của tôi chính là ngôi chợ Tân Hương này.

Ở đây có ông Chệt già tên là Thầy Thẹo. Ông là người bạn thân của tôi và cậu tôi. Ông lùn tịt, có cặp mắt kèm nhèm ti hí như không bao giờ mở rộng ra nhưng không bao giờ để lọt một đồng xu hay một hạt đậu. Cái đầu của ông trông như một chiếc gáo dừa gọt nhẵn, còn cái trán mang những nếp nhăn như một mảnh ruộng bừa và ở giữa có một vết cắt to bằng trái ớt sừng trâu dựng đứng. Ông vừa bán tạp hóa lại vừa bắt mạch hốt thuốc Bắc. Những kệ tủ của ông đen đúa dơ bẩn và cũ xì chứng tỏ rằng ông đến đây lập nghiệp đã lâu. Vừa mang thẹo lại vừa hốt thuốc Bắc, nên ông được người ta gọi là Thầy Thẹo. Hồi còn bé thơ, có lẽ không ngày nào là tôi không đến chợ này. Đi mua nước mắm dầu lửa, mua đậu phộng, đậu xanh, mua nhang, đèn cầy, đặc biệt là giấy bạch và nhợ để thả diều. Ở chợ cũng có nhiều tiệm khác, nhưng tôi và cậu tôi chỉ đến tiệm Thầy Thẹo.

Mỗi lần thấy tôi, ông đều xoa đầu khen đáo để. Bất cứ tôi mua gì ông cũng bán rẻ hơn người khác, và lần nào tôi cũng được ông thưởng cho một cục kẹo dừa, tôi lột vỏ ra ngay ngậm về đường. Ở kế tiệm Thầy Thẹo là tiệm của một ông Chệt trẻ hiệu là Anh Ký. Không biết tại sao có lần tiệm này phát cháy nhưng nhờ ở gần mé sông nên chữa lửa dễ dàng. Nhà lồng chợ, nhà việc, bến sông đều rất thân mến đối với tôi. Những buổi sáng đang ngủ bỗng nghe trống và phèng la văng vẳng, tôi và cậu tôi vùng dậy vừa dụi mắt vừa chạy sang chợ. Biết bao nhiêu trò mị thuật kỳ thú tôi được xem ở ngôi chợ làng này. Một lần tôi được xem gánh Tiểu Lực Sĩ. Tiểu Lực Sĩ không làm trò mà chỉ biểu diễn bắp thịt gọi là luyện nội công. Ông hót bụng vô và đưa tay nẹn ngang eo ếch thì những đầu ngón tay vừa đụng nhau. Ông hít thở phình ngực rồi vận chuyển bắp thịt con chuột chạy ra phần trước của cánh tay, rồi cho nó chạy trở lại chỗ cũ. Xong lại chuyển vận bắp thịt ngực, làm cặp vú vun lên như vú đàn bà và nhúc nhích. Cả bọn con nít lẫn người lớn đều cười khoái trá.

Nhưng chưa hết, ông còn bẻ sắt. Những cọng sắt dài hai tấc to bằng ngón tay út được ông cầm lên và bóp cong lại thành hình chứ U rồi đưa cho mọi người xem có phải là sắt thiệt hay không. Ông lại còn bịt vải một đầu que sắt rồi đút vào răng, nạy cong rồi bóp, ném xuống đất nghe leng keng. Ông Tiểu Lực Sĩ còn cho biết ở Vĩnh Long ông đã từng nằm trên đường cho chiếc xe hơi chở ba mươi người cán ngang ngực ông. Để chứng tỏ phần nào về sức chịu ghê gớm của bộ ngực, Tiểu Lực Sĩ dùng một thanh sắt dẹp đập liên tiếp năm, sáu phát vào ngực làm cho thanh sắt cong vòng.

Những hồi trống chiêng cửa những gánh Sơn Đông Mãi Võ ngày xưa như còn vang đâu đây hay trong lòng tôi. Cứ mỗi bước chân đi tôi lại như bắt gặp một kỷ niệm ngày xưa hiện về. Mặt đất không còn gì nữa ngoài cỏ rậm và những hố bom, vết đạn, nhưng lòng tôi cứ tươi non như một tàu lá chuối xanh. Tôi bắt gặp lại Tôi vài chục năm trước.

Chiếc cầu sắt gần chợ vẫn còn đứng đó như bộ xương con khủng long ngã gục xiêu vẹo. Nhịp giữa bị cách mạng đánh đứt ngang hồi đầu thời kỳ chống Pháp nay được thay thế bằng một thân cây dừa cũng mang nhiều vết đạn. Ngày xưa ở dốc cầu này có một bà cụ ngồi bán những trầu cau vôi thuốc bánh ít bánh tét trong một cái quán nghèo nàn.

Tôi không bao giờ chú ý hoặc ghé lại đây mua bất cứ món gì, nhưng bây giờ chiếc quán và bà cụ lại hiện rõ lên trong đầu tôi. Giá chiếc quán còn đây tôi sẽ ghé lại mua bánh ăn và xin nước uống.

Cỏ mọc lên quá lưng quần, tôi phải đưa tay rẽ lấy lối. Không có ai lai vãng quanh đây. Tôi như con trâu bị kẻ trộm mang đi xa sút dây trở về chuồng cũ, nên vẫn còn nhớ đường. Tôi phải khó khăn lắm mới đi qua nhịp cầu giữa được vì tay vịn không còn nguyên. Nó đã bị một viên đạn hay một mảnh bom nào xén ngang gãy lìa còn nằm lung lơ, mỗi bên một khúc.

Bên kia đầu cầu là một bụi tầm vông to um tùm che cả cái quán cóc của ông Tám Cần. Cái quán này phong phú hơn cái quán của bà cụ vì nó nằm ở ngã ba đi về làng Hương Mỹ quê tôi. Ở đây tôi thường mua những miếng đu đủ chín hoặc dưa hấu vừa đi vừa ăn. Đây là mảnh đất tưới đầy nước mắt của tôi và có lẽ bụi tầm vông kia xanh tươi là nhờ những dòng nước mắt đó. Mỗi lần bãi trường, tôi ra nhà ngoại tôi chơi, đến lúc về, thì ngoại tôi theo tôi đến đây, bịn rịn rãi mới để tôi đi.

Bây giờ ngôi quán kia và bụi tầm vông không còn để lại dấu vết gì ! Con đường đất nối liền hai làng Minh Đức và Hương Mỹ từng in dấu chân tôi nay đã trở thành rừng hoang. Tôi cứ đi thuộc lòng. Tim tôi như hòn than bừng đỏ Sự nóng lòng thấy lại cảnh nhà ngoại tôi làm cho tôi tuôn bờ lướt bụi bất kể gai góc.

Tôi ra đi kháng chiến từ đây và bây giờ tôi trở lại nơi đây như một tên cường đạo hoàn lương với tội lỗi được chính mình nhìn nhận. Tôi tưởng tôi đi trên mảnh đất nào khác không phải quê hương mình.

Không còn nhớ đó là vào buổi chiều hay buổi sáng nữa. Tôi đã gặp lại ngoại tôi đứng trước một căn chòi lụp xụp thấp lè tè như một cái chuồng vịt hẫng. Tôi kêu lên:

“Ngoại!”

o O o

Cuộc ra đi theo cách mạng của tôi khởi đầu từ đây và cũng chấm dứt ở mảnh đất này. Khi tôi nhìn thấy ngoại tôi thì tôi rụng rời hết tay chân và trời đất dường như sụp đổ. Hồ chủ tịch, Trung ương đảng, Hà Nội, cách mạng là gì?

Đột nhiên tôi tự hỏi. Và đây không phải là lần đầu.

Giải phóng là cái gì ? Ai giải phóng và ai được giải phóng? Giá tôi đừng về để nhìn thấy bộ mặt giải phóng. Tất cả đều là một sự giả dối, lừa bịp, tàn bạo và ngu muội. Bọn Cộng Sản bất lương chẳng những đã phá nát Quê Hương, Tổ Quốc mà còn tàn phá cả TÂM HỒN DÂN TỘC VIỆT NAM. Tôi sẽ để tất cả thì giờ trong những năm còn lại của đời tôi để chứng minh cho kỳ được điều này.

Sài Gòn 1974
Hoa Kỳ Tháng Năm 1989

 

No comments:

Post a Comment