Sunday, January 26, 2020

Chiến Hữu Roãn Hạp Chiến Đoàn 2 và 3 Sở Liên Lạc Nha Kỹ Thuật

Kính báo cùng quý NT và các CH/NKT
Chúng tôi vừa nhận được tin Chiến hữu Roãn Hạp CCS/CCC sở LL/BTTM vừa vĩnh viễn giã từ đồng đội lúc 03:00 am ngày 26 tháng 01 năm 2020 tại Montreal, Canada.
Thành kính chia buồn cùng toàn thể Tang quyến và Nguyện cầu cho Hương linh anh sớm được Hưởng Nhan Thánh Chúa.
Ngô đặng Tuyên




 

Saturday, January 25, 2020

Đại Úy Nguyễn Hùng Trâm và Phạm Hòa / Diễn Hành Tết Nguyên Đán 2020 / Bolsa Ave

DAI VO <lmqpvn06@gmail.com>
To:Pham Hoa
Jan 25 at 7:56 PM
XIN CHÚC MỪNG NĂM MỚI CANH TÝ, VÀ NHỜ C/H HÒA CHUYỂN LỜI CẦU CHÚC SỨC KHỎE ĐẾN C/H HÙNG TRÂM, TÌNH NGHĨA ANH EM MỘT THỜI CHINH CHIẾN (TRẠI LONG THÀNH "QUYẾT THẮNG") KHÔNG BAO GIỜ QUÊN.
NHÌN HÌNH ẢNH CỦA C/H HÙNG TRÂM VÀ C/H HÒA BÊN NHAU TRONG BUỔI DIỄN HÀNH TẾT CANH TÝ MÀ LÒNG NAO NAO NHỚ LẠI BIẾT BAO KỶ NIỆM TRONG ĐỜI.
CẦU CHÚC BÌNH AN, CHÚNG TA VẪN CÒN CÓ NHAU.
V.Đ.T. (SYDNEY)

Friday, January 24, 2020

Những Người Lính Một Thời Bị Lãng Quên

Diễn văn đọc trong ngày ra mắt 29 - 10 - 1995 tại Georgia
Kính thưa Quý vị! Trước tiên, tôi thay mặt cho toàn thể những gia đình BKCT Tại Atlanta nói riêng và toàn thể Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ nói chung bày tỏ niềm hân hoan trước thịnh tình của quý vị đại diện các hội đòan, các cơ quan truyền thông, báo chí, các nhân sĩ Việt Mỹ, các chiến hữu, thân hữu đã hiện diên trong buổi nói chuyện ngày hôm nay. Hơn hai mươi năm trôi qua, chiến tranh Việt Nam đã kết thúc một cách quá đau lòng. Ðối với cà hai dân tộcViệt Mỹ, sự kiện đó đã trở thành thảm họa và cho đến nay lịch sử của cuộc chiến tranh đó vẫn còn những bí mật cần phải được soi sáng,. Tại diễn đàn này, hôm nay, chúng ta cùng nhau ôn lại trang sử cũ. Kính thưa quý vị! Hơn ba thập kỷ đã qua, câu chuyện về những người Biệt Kích Cảm Tử (COMMANDOS) ÐƯỢC COI NHƯ LÀ MỘT HUYỀN THOẠI. HƯ và THỰC lẫn lộn. Huyền thoại đó đã bị vùi sâu vào bóng đêm của lịch sử trong một âm mưu nhằm xóa bỏ sự hiện diện của một đạo quân bí mật đã tiến hành một cuộc chiến tranh bí mật, trong đó một bộ phận nhằm lật đổ chế độ Cộng Sản tại Việt Nam để giành lại phần đất thân yêu đã bị nhuộm đỏ, phần còn lại thực hiện những công tác ngoài biên cương nhằm ngăn chặn, hạn chế sự xâm nhập của Cộng quân qua con đường máu, gây cho chúng những tổn thất kinh hoàng. Sau 1975, huyền thoại đó hoàn toàn đi vào quên lãng. Nhưng thời gian gần đây đột nhiên các cơ quan truyền thông báo chí hướng sự chú ý tới những thông tin về những người trở về từ cõi chết sau hàng chục năm dài bị tù tội, đày đọa trong những nhà tù khủng khiếp của Cộng Sản Việt Nam.. Sự kiện này không chỉ giới hạn trong phạm vi Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ mà còn gây chấn động dư luận toàn thế giới. Nổi bật nhất là hai vấn đề: Thứ nhất: Một số Thượng Nghị Sĩ, Tướng Lãnh trong quân đội Hoa Kỳ trước đây từng là cấp chỉ huy của những người BKCT Việt Nam lên tiếng yêu cầu Bộ Ngoại Giao cấp chiếu khán nhập nội cho toàn thể BKCT còn bị kẹt lại ở Việt Nam. Thứ Hai:Luật Sư John Mattes thay mặt cho toàn thể BKCT Việt Nam đệ đơn vào tòa án bồi thường của liên bang yêu cầu tòa án buộc cục tình báo trung ương My ờ(CIA) và cục tình báo Bộ Quốc Phòng (D IA) phải bồi hoàn cho những người còn sống cũng như cho những người thừa kế của những BKCT đã chết trong oan khuất. Kính thưa Quý Vị! Chiến tranh Việt Nam đã lui vào quá khứ, tất cả mọi người đều muốn quên đi thất bại đau đớn đó để suy tìm một phương thức hành động mới cho tương lai. Nhưng chúng ta sẽ làm được gì khi lịch sử vẫn còn những vấn đề phải che đậy, dối trá. Chiến tranh Việt Nam không thể và không bao giờ là một cuộc nội chiến như CIVIL WAR của Hoa Kỳ trước đây. Thực chất đó là một cuộc chiến tranh Ý Thức Hệ giữa hai hệ thống ý thức: TỰ DO và CỘNG SẢN mà bất hạnh thay Tổ Quốc của chúng ta lại trở thành một bãi chiến trường , thành nơi đọ sức. Vì vậy, chiến đấu cho tổ quốc của chúng ta không chỉ giới hạn trong biên giới của quốc gia mà chính là giải trừ tai họa cho toàn thế giới. Từ giao điểm của hai luồng tư tưởng: 1/ Tinh thần yêu Tổ Quốc của Những Người Việt Nam Tự Do 2/ Kế hoạch thực hiện Chiến Lược Toàn Cầu Bao Vây , Tiêu Diệt Cộng Sản của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ và Thế Giới Tự Do Ðội quân BKCT được thành lập. Tất cả nhũng thành viên của lực lượng này đều do người Mỹ trực tiếp tuyển mộ, huấn luyện, đào tạo đặc biệt tinh nhuệ đa năng để tiến hành những kế hoạch, công tác đặc biệt trong cuộc chiến tranh ngoài quy ước nhằm chặn đứng và tiêu diệt thế giới Cộng Sản. Ð ể chi phí cho việc xây dựng lực lượng này. Cục Tình Báo Trung Ương Mỹ đã tốn hơn trăm triệu Mỹ Kim thời đóà Nhưng thật hết sức đau lòng khi chúng ta buộc phải họp mặt tại đây để nói rõ trang sử bi thảm của những con người dường như được sinh ra để dâng hiến đời mình cho Tổ Quốc và Lý Tưởng. Kính thưa Quý vị! Những trang chiến sử vẻ vang luôn luôn được tô điểm bằng những chiến công của những anh hùng trong chiến trận. Bắn hạ đối phương là chiến công của người cầm súng. Nhưng có lẽ nhân loại chưa bao giờ được biết đến một chiến công quái gở, đáng ghê tởm là giết đi, đúng hơn là mượn tay kẻ địch để tiêu diệt cả một đội quân đặc biệt dũng cảm do chính mình thành lập. Hành động tội ác đó những tưởng đã thành công nhưng không ai có thể ngờ được rằng; mặc dù trở thành mục tiêu cần phải tiêu diệt của tất cả các bên những người Biệt Kích Việt Nam trải qua bao nỗi khổ đau đày đọa trong các nhà tù của Cộng Sản vẫn vững vàng , vẫn giữ toàn tiết tháo và phẩm cách bất diệt của người chiến sĩ để bước ra khỏi bóng đêm của Lịch Sử. Kính Thưa Quý Vị! Hiện diện tại hội trường nhỏ bé này có 18 thành viên của đội quân Biệt Kích Cảm Tử. Chúng tôi được sự đồng thuận của toàn thể anh em trong đội quân bí mật để công khai hóa sự thực về bí mật lịch sử này. Mục đích của chúng tôi không phải nhằm vào những quyền lợi vật chất nhỏ nhen, vì tâm nguyện của những thành viên trong gia đình Biệt Kích chỉ muốn được là Những Chiến Sĩ Vô Danh trong Lịch Sử nhưng không thể là thứ Lịch Sử bị nhào nặn, áp đặt bởi bất kỳ một thế lực nào.. Tất cả mọi hành đông bội phản , dối trá, đều là những vết nhơ trong Lịch Sử. Ðể gột rửa vết nhơ đó không thể chỉ là sự sám hối muộn màng như cựu Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Mac Namara bằng cách viết hồi ký thú nhận sai lầm của mình mà cái cần thiết là phải thừa nhận sự thật để VIẾT LẠI LỊCH SỬ. Thảm kịch của những người Biệt Kích Cảm Tử Việt Nam không phải là ngẫu nhiên, thất bại của cuộc chiến tranh bí mật ở Việt Nam CHÍNH LÀ THẤT BẠI CỦA NHỮNG NGƯỜI ÐIỀU HÀNH CUỘC CHIẾN NGOÀI QUY ƯỚC ÐÓ. Thảm kịch của dân tộc Việt Nam cũng bắt nguồn từ sự sai lầm và bội ước trong quá khứ. Cảm ơn anh TOURISON, một người Mỹ chân chính trong những người Mỹ chân chính đã viết lại lịch sử, đã trả lại cho những người Biệt Kích Cảm Tử Việt Nam vị trí của mình trong chính sử. Cảm ơn anh và những người đã cộng tác với anh về cuốn sách mà anh đã viết về chúng tôi. Cảm ơn lòng dũng cảm, chính trực và cao thượng của anh với việc viết lại trang sử bi hùng này.

Thursday, January 23, 2020

Biệt Kích Mộc A Tài - The Lost Commandos Team Red Dragron - Sở Bắc Nha Kỹ Thuật RVN passed away 1/21/2020 Los Angeles California at 87 years old.

 BK Mộc A Tài, LH Lâm Ngọc Chiêu, BK Tống Văn Thái. 
HL Đặng Phước Nguyên, Kingbee Nguyễn Quý An, STLC Nguyên Huy 

 Phạm Hòa, BK Tống Văn Thái, BK Nồng Văn Hính, BK Sở Bắc, 
BK Mộc A Tài, LH Lâm Ngọc Chiêu
BK Mộc A Tài và Phạm Hòa


BIỆT KÍCH 34A
B56Omega_Page_18.jpg        Ngày 26 tháng Mười Một năm 1963, Tổng Thống Johnson tuyên bố sẽ tiếp tục theo đuổi đường lối cứng rắn của Tổng Thống Kennedy về các hoạt động bí mật, ký thuận chương trình NSAM273. Cho phép gia tăng những hoạt động bí mật chống lại miền bắc Việt Nam, trong đó có việc thả những toán biệt kích ra ngoài bắc trong Hành Quân 34A, và gia tăng mức độ cho những toán biệt kích xâm nhập vào nước Lào sâu 50 cây số.
        Với sự chấp thuận này, Tổng Thống Johnson có ba mục đích: thứ nhất, chính quyền Hà Nội phải chấm dứt các hoạt động trong miền nam. Thứ hai, thực hiện kế hoạch Tâm Lý Chiến, tuyên truyền người dân miền bắc. Thứ ba, gia tăng các hoạt động bán quân sự (tổ chức kháng chiến), gây khó khăn cho quân đội, chính quyền miền bắc. Và ông ta hy vọng chính quyền miền bắc sẽ cảm thấy tình hình không được sáng sủa cho họ và phải rút quân đội từ bên Lào và trong miền nam trở về miền bắc.
        Ngày 21 tháng Mười Hai, Tổng Thống Johnson họp với bộ trưởng Quốc Phòng McNamara, giám đốc cơ quan Trung Ương Tình Báo CIA John McCone để bàn về Hành Quân (Chương Trình) 34A. Họ quyết định thực hiện những hoạt động bí mật, để đỡ bị tổn thất, và tránh dư luận Quốc Tế. Ủy ban Krulak được thành lập để xét lại Hành Quân 34A, thứ nhất, tìm hiểu xem Hà Nội sẽ trả đũa như thế nào cho các hoạt động bí mật này. Thứ hai, thăm dò dư luận Quốc Tế. Sau khi nghiên cứu, ủy ban Krulak khuyến cáo, Hành Quân 34A phải thu hẹp lại, và Tổng Thống Johnson ký thuận những lời khuyến cáo của ủy ban Krulak trong tháng Giêng năm 1964.
        Bộ tư lệnh Quân Viện MACV trong Saigon ban hành quyết định “General Order 6”, thành lập một đơn vị “tối mật” được biết đến qua danh hiệu MACV-SOG hay SOG (Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát) để thi hành những hoạt động bí mật theo lệnh của Tổng Thống Johnson.
        Theo tài liệu “The Secret War Against Hanoi”, tác giả Richard Schultz, Jr. tìm lại những hoạt động của đơn vị SOG nơi miền bắc Việt Nam, sau đó phát triển sang Lào và Cambodia. Mục đích chính của đơn vị SOG, gửi những toán biệt kích xâm nhập ra miền bắc, phá rối hậu phương, tâm lý chiến, đưa những toán biệt kích hải quân (biệt hải) đánh phá hải phận miền bắc, và phá hoại đường mòn HCM.
        Để yểm trợ cho những hoạt động bí mật này, đơn vị SOG có ba ngành, trong đó có Không Yểm, bao gồm tất cả các loại phi cơ chiến thuật, trực thăng và phi cơ vận tải, đóng trong các căn cứ không Deltabaker_2.jpgquân trong miền nam Việt Nam và Thái Lan.
        Tướng William Westmoreland, tư lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã báo cáo cho Bộ Quốc Phòng / bộ TTM Quân Lực Hoa Kỳ (Pentagon), những hoạt động của đơn vị SOG không đem lại nhiều kết qủa trong trận chiến với Hà Nội. Trong vòng sáu tháng kế tiếp, quân đội Hoa Kỳ không thèm để ý đến đơn vị SOG. Đô Đốc Harry Felt, vẫn tiếp tục cho những toán biệt hải, bắn phá bờ biển miền bắc, nhưng những toán biệt kích hoạt động nơi miền bắc Việt Nam, bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ không màng tới.
        Chỉ còn lại bốn toán biệt kích cùng với một điệp viên đơn độc (singleton) cẫn còn hoạt động nơi miền bắc, được cơ quan CIA bàn giao cho đơn vị SOG vào đầu năm 1964. Năm đó, SOG đưa ra miền bắc khoảng 250 biệt kích quân, bằng phương tiện thả dù, đường biển và đường bộ.
        Cơ quan CIA cung cấp cho đơn vị SOG đủ loại “đồ nghề” trong chiến tranh ngoại lệ. Những toán biệt kích SOG mặc quân phục lính Bắc Việt, võ trang tiểu liên AK-47, đem theo mìn bẫy, dụng cụ nghe lén điện thoại, v.v... Các loại vũ khí trong khối cộng sản kể cả súng cối 82 ly, sản xuất từ Trung Cộng, cơ quan CIA mua lại từ một quốc gia đệ tam, cung cấp cho đơn vị SOG.
        Ngoài ra đơn vị SOG có một đài tiếp vận truyền tin, liên lạc, nằm trên đỉnh một ngọn núi cao trên đất Lào, quân đội Bắc Việt không thể lên tới được. Đài tiếp vận này rất quan trọng, cho những biệt kích quân bị thất lạc (trong lúc gia tranh với quân đội Bắc Việt), liên lạc với bộ chỉ huy hoặc các toán biệt kích khác.
        Trong khoảng thời gian từ tháng Tư 1964 đến tháng Muời năm 1967, có khoảng 40 toán biệt kích, và điệp viên đơn độc được đưa ra xâm nhập miền bắc. Bốn toán biệt kích có tên Bell, Remus, Tourbillon, và Easy. Toán biệt kích thứ năm, Europa và những điệp viên đơn độc của cơ quan CIA, khi bàn giao cho đơn vị SOG cũng “được” thả xuống miền bắc.
        Toán biệt kích Remus nhẩy dù xuống khu vực gần Điện Biên Phủ ngày 16 tháng Tư năm 1962. Nhiệm vụ của họ thiết lập một căn cứ bí mật, từ đó phát xuất đi những chuyến dò thám lấy tin tức. Ngoài ra toán biệt kích còn có thêm nhiệm vụ thâu thập những tin tức, tình hình chính trị miền bắc và những bản báo cáo của quân đội Bắc Việt, tìm những bãi thả dù để nhận đồ tiếp liệu cũng như những toán biệt kích khác. Toán biệt kích Remus thành công, phá xập vài chiếc cầu, nhưng trong năm 1968, mọi sự liên lạc với toán biệt kích Remus chấm dứt. Sau đó một tù binh Bắc Việt khai, có nghe nói toán biệt kích Mỹ Remus bị bắt trong tháng db7107closeup0xu.jpgSáu năm 1962.
        Toán biệt kích Eagles được thả dù xuống khu vực gần biên giới Việt-Trung ngày 27 tháng Sáu năm 1964, với nhiệm vụ phá hoại đường xá, đường rầy xe lửa, và một căn cứ không quân. Họ chưa hoàn thành nhiệm vụ, đã được lệnh di chuyển về hướng nam rồi sau đó mất liên lạc.
        Toán biệt kích Romero gồm mười người được trực thăng đưa vào xâm nhập khu vực nơi hướng bắc vùng phi quân sự. Toán biệt kích có nhiệm vụ theo dõi các cuộc chuyển quân của quân đội Bắc Việt từ miền bắc vào đất Lào (sau đó vào miền nam Việt Nam), và quấy rối, phá hoại con đường chiến luợc của quân đội Bắc Việt (đường mòn HCM). Trong những bản báo cáo của đơn vị SOG, toán biệt kích Romero không trả lời những tin tức đòi hỏi trong năm 67, 68.
        Toán biệt kích Hadley, xâm nhập miền bắc bằng cách băng qua vùng phi quân sự. Toán biệt kích có nhiệm vụ theo dõi mức độ chuyển quân của quân đội Bắc Việt trên các con đường chạy qua Lào, và chỉ điểm cho không quân oanh kích đoàn xe chở quân của địch. Toán biệt kích Hadley có báo cáo về cho đơn vị SOG, nhưng những tin tức của họ không có giá trị.
        Toán biệt kích Tourbillon nhẩy dù xuống khu vực gần biên giới Lào Việt. Toán biệt kích cuối cùng nhẩy dù xuống miền bắc là toán Red Dragon. Ngày 21 tháng Chín năm 1967, toán biệt kích Red Dragon bẩy người nhẩy dù xuống khu vực nơi phiá nam biên giới Việt-Trung. Cả hai toán biệt kích có nhiệm vụ dò thám lấy tin tức và phá hoại đường xá, cầu cống. Lần cuối cùng toán Red Dragon liên lạc năm 1969, người Hoa Kỳ nghi ngờ toán biệt kích đã bị bắt, gửi những báo cáo sai lạc về.
        Trong chiến tranh tâm lý, người Hoa Kỳ cho phi cơ thả radio, đã được điều chỉnh trước xuống miền bắc, để nghe hai đài phát thanh “đen”, đài “Gươm Thiêng Ái Quốc” và đài “Cờ Đỏ”. Hai đài phát thanh “bí mật” này phát ra những tin tức sai lạc, phóng đại, về những toán biệt kích hoạt động bí mật nơi miền bắc (dĩ nhiên thổi phồng). Những điện văn gửi qua lại, nhắn tin giữa những toán biệt kích đang “nằm vùng” nơi miền bắc, làm sao bắt tay, v.v...
        Nhiều toán biệt kích đang hoạt động nơi miền bắc được tăng cường thêm biệt kích quân bằng cách nhẩy dù xuống. Toán Toubillon nhận thêm “người” trong năm 1962, hai lần khác trong năm 1964, một lần trong các năm 1965, 1966 và 1967. Toán biệt kích Remus được tăng cường bốn lần, toán Easy được năm lần. Tất cả những biệt kích quân nhẩy dù xuống tăng cường đều bị giết hoặc bắt sống. Đơn vị SOG tin rằng các toán biệt kích đã bị bắt, rồi bị ép buộc gửi những tin tức, báo cáo sai lạc vào Saigon. earthangel.jpgCơ quan Trung Ương Tình Báo CIA đã “làm” chuyện này từ lâu, bắt sống lính Bắc Việt, bắt cóc thường dân sinh sống nơi miền bắc, và xử dụng những “cảm tình viên” làm gián điệp “hai mang”. Đến năm 1967, chỉ còn bốn toán biệt kích, Eagles, Hadley, Red Dragon, Romeo và một điệp viên đơn độc vẫn còn hoạt động nơi miền bắc.
        Đến cuối năm 1967, đơn vị SOG cho thêm hai toán biệt kích xâm nhập ngắn hạn, dò thám tìm mục tiêu vào trong các hoạt động bí mật của họ. Hành Quân 34 (Oplan 34) có thêm một “chương trình” (kế hoạch) mới, nhằm đánh lạc hướng cơ quan “phản gián” miền bắc. Chương trình này có mật danh “Forae”, đon vị SOG hy vọng sẽ gây chia rẽ trong nội bộ miền bắc.
        Đến năm 1968, Hành Quân 34 chia làm ba chương trình: 34A đặc trách các toán biệt kích hoạt động nơi miền bắc Việt Nam. 34B, bao gồm các toán biệt kích “Strata” xâm nhập, dò thám miền bắc trong thời gian ngắn. 34C, bao gồm các hoạt động nhằm đánh lạc hướng địch quân.
        Theo kế hoạch Hành Quân 34A, những toán biệt kích xâm nhập miền bắc, có nhiệm vụ xây dựng những nhóm kháng chiến, chống lại chế độ Hà Nội. Nhưng chưa bao giờ được Washington chấp thuận nên nhiệm vụ thay đổi, lấy tin tức tình báo, phá hoại và tâm lý chiến. Rồi toán biệt kích được lệnh không được tiếp xúc với dân chúng miền bắc... làm cho họ không thể nào hoàn tất nhiệm vụ. Tóm lại, chương trình 34A của đơn vị SOG không thành công.
        Chuyện đưa những toán biệt kích xâm nhập miền bắc, có thể nói hoàn toàn thất bại. Ngày 14 tháng Ba năm 1968, tư lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, tướng William Westmoreland, chấp thuận cho một chương trình mới nhằm đánh lạc hướng địch quân, có mật hiệu là Forae. Mục đích chính của chương trình Forae, làm cho chính quyền Hà Nội tin rằng, có nhiều toán biệt kích đang hoạt động nơi miền bắc Việt Nam... nhiều hơn họ được biết. Điều này làm lạc hướng quân đội Bắc Việt trong miền nam, và cho Hà Nội biết rằng, nền an ninh miền bắc không được yên ổn, không thể đưa thêm quân vào miền nam.
        Forae có ba chương trình căn bản, mang mật danh, Borden, Urgency và Oodles. Chương trình Borden tuyển mộ tù binh Bắc Việt làm việc cho đơn vị SOG. Họ đưa những tù binh này đi nơi khác, huấn luyện, rồi trả về miền bắc. Người Hoa Kỳ, cho họ biết những tin tức sai lạc, có rất nhiều toán biệt kích đang hoạt động hữu hiệu nơi miền bắc Việt Nam và con số lực lượng kháng chiến càng ngày càng gia tăng. Khi được đưa trở ra miền bắc, đơn vị SOG tin rằng, các tù binh này sẽ khai lại những điều mình biết cho sĩ quan an ninh Bắc Việt. Trong năm 1968, chương trình Borden tuyển mộ 98 “cựu tù binh” Bắc Việt và đưa ra miền bắc 44 CCNHawaii.gifngười.
        Urgency có hai nhiệm vụ. Thứ nhất, “làm việc” với những tù binh (bị bắt), thường dân miền bắc (bị bắt cóc) cứng đầu, không chịu hợp tác. Những người này được đưa ra “Paradise Island” (Cù lao Chàm) để nhồi sọ, làm cho họ có cảm tưởng đang sống ở một nơi nào đó trên miền bắc Việt Nam, trong lòng một tổ chức kháng chiến, với đài phát thanh “đen”. Sau đó họ được huấn luyện nhẩy dù, và thả dù xuống gần một làng nơi miền bắc để họ có thể đi bộ đến làng, trình diện, đem theo những tin tức sai lạc.
        Nhiệm vụ thứ hai cũng nhằm đánh lạc hướng chính quyền miền bắc. Lần này họ xử dụng những người chịu hợp tác, cũng đưa ra “Paradise Island” tuyên truyền, trao cho những tin tức sai lạc rồi trả về miền bắc.
        Chương trình đánh lạc hướng địch quân qua phương tiện truyền thông, máy phát thanh (radio) là Oodles. Chương trình làm như có một hệ thống gián điệp, biệt kích nằm vùng trong một khu vực chọn lọc nơi miền bắc Việt Nam. Gửi đi những điện văn cho những toán biệt kích (không có thực) nằm vùng, bao gồm: thả dù tiếp tế, thả dù toán biệt kích mới, thả dù thêm biệt kích xuống tăng cường, chúc mừng ngày sinh nhật của toán viên nào đó... Thả những kiện hàng tiếp tế trống rỗng xuống gần chỗ đóng quân của một đơn vị lính Bắc Việt, làm cho địch có cảm tưởng, toán biệt kích... đã đem đi hết đồ tiếp tế.
        Ngoài ba chương trình chính yếu, Forae tạo ra thêm ba chương trình khác, Uranolite, Pollack, và Sanitaries. Uranilite thả xuống miền bắc những thùng đồ “quấy rối” gây khó khăn, mệt mỏi cho lực lượng an ninh miền bắc. Chẳng hạn như thùng đựng giấy nhưng bên ngoài có vẻ như thùng chứa máy móc điện tử để lấy tin tức, dụng cụ ám sát, chất nổ, v.v... đã được toán biệt kích (ma) đến lấy đi. Chương trình Pollack gửi những tài liệu giả, để viên chức trong chính quyền miền bắc nghi kỵ lẫn nhau. Pollack chấm dứt hoạt động trong tháng Mười Một năm 1968. Sanitaries trợ lực cho đài phát thanh đen “Gươm Thiêng Ái Quốc”, làm như các hoạt động của các toán biệt kích nơi miền bắc rất thành công.
        Những chương trình “đánh lạc hướng” miền bắc, tỏ ra có hiệu qủa. Đài phát thanh, báo chí miền bắc lên tiếng lo ngại những chuyện điệp viên, biệt kích xâm nhập. Đến tháng Mười Một năm 1968, Washington ra lệnh cho đơn vị SOG chấm dứt tất cả các hoạt động này.
        Trong tháng Mười Hai năm 1964, đơn vị SOG được lệnh gia tăng những hoạt động đánh phá các mục tiêu dọc theo bờ biển miền bắc. Trong năm 1965, đơn vị SOG (Biệt Hải) đã tổ chức 170 chuyến hành quân vượt tuyến phát xuất từ Đà Nẵng. Những tầu chiến Swift, Nasty chạy tốc độ rất nhanh, tấn công các mục tiêu nơi bờ biển, bắt cóc ngư dân miền bắc đem đến “Paradise Island” để tuyên truyền. Sau đó họ được trao qùa tặng, truyền đơn, radio để nghe đài “Gươm Thiêng Ái Quốc” và đưa trở về làng cũ nơi bờ biển miền bắc. Trong năm 1965, SOG bắt cóc 126 thường dân miền bắc, thả xuống miền bắc 1000 radio, và 28.742 hộp qùa và cả triệu tờ truyền đơn. Năm sau, 1966 họ bắt cóc 353 thường dân ngoài bắc.
HÀNH QUÂN 34A (OPLAN 34 ALPHA)
macv.jpg        Hành quân 34A hay Kế Hoạch Hành Quân 34 Alpha (Operation Plan 34 Alpha), là một chương trình tối mật, cho những hoạt động bí mật chống lại chính quyền miền bắc Việt Nam. Những hoạt động bí mật bao gồm: cho điệp viên, thả những toán biệt kích xâm nhập vào miền bắc phá hoại, và xử dụng đơn vị Biệt Hải (Biệt Kích Hải Quân) đánh phá những mục tiêu dọc theo bờ biển miền bắc.
        Chương tình này do cơ quan Trung Ương Tình Báo CIA dựng lên từ năm 1961, đến năm 1964 chuyển giao cho bộ Tư Lệnh Quân Viện MACV trong kế hoạch “Trở Lại” (Switch Back). Quân đội Hoa Kỳ xây đựng một đơn vị lấy tên là Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát (Study and Observation Group) SOG để nhận lãnh trách nhiệm này. SOG cũng là một “danh hiệu” để che dấu những hoạt động trong “Chiến Tranh Ngoại Lệ”, nhận lệnh trực tiếp từ bộ Quốc Phòng / Tổng Tham Mưu Quân đội Hoa Kỳ. Đại tướng William Westmoreland, tư lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam không có quyền ra lệnh cho những cuộc hành quân ngoài phạm vi miền nam Việt Nam. Ông ta được nghe thuyết trình, báo cáo, v.v... nhưng tất cả mọi hoạt động ngoại biên đều theo lệnh của bộ Quốc Phòng và của Tổng Thống Hoa Kỳ.
        Theo đúng kế hoạch nguyên thủy, hành quân 34A thả những toán biệt kích ra miền bắc, xây dựng hệ thống kháng chiến chống lại chính quyền cộng sản và thiết lập đài phát thanh “đen” Gươm Thiêng Ái Quốc phát tuyến ra miền bắc, trong chương trình tâm lý chiến, tuyên truyền chống lại giới lãnh đạo miền bắc.
        Đó là những nhiệm vụ chính trong hành quân 34A cho đến cuối năm 1966. Sau đó, nhiệm vụ phá hoại, tâm lý chiến trở thành phụ, nhiệm vụ chính là dò thám, phá hoại, ngăn chặn hệ thống đường mòn HCM.
        Vấn đề thả biệt kích ra miền bắc, nằm vùng dài hạn quá khó khăn, có thể xem như thất bại hoàn toàn. Hành quân 34A lại thay đổi kế hoạch, những toán biệt kích “STRATA” chỉ xâm nhập ngắn hạn một, hai tuần trong những khu vực giới hạn (gần tuyến 17). Ngoài ra đơn vị SOG tổ chức chương trình FORAE, gửi những điện văn giả cho những toán “biệt kích ma” đang nằm vùng nơi miền bắc để đánh lừa, làm rối loạn chính quyền miền bắc. Đến cuối năm 1968, hành quân xâm nhập được chia làm ba bộ phận rõ ràng:
-     34A: Xâm nhập nằm vùng dài hạn.
-     34B: Xâm nhập ngắn hạn (Strata).
-     34C: Đánh lừa (Diversionary).
        Chương trình Forae bao gồm các hoạt động:
-     Borden: Xử dụng tù binh chính quy Bắc Việt bị quân đội Hoa Kỳ bắt (họ không xử dụng tù binh quân đội VNCH bắt), huấn luyện sơ sơ, cung cấp những tin tức sai lạc, rồi cho nhẩy dù trở ra miền bắc, với hy vọng họ sẽ bị lực lương an ninh, biên phòng miền bắc bắt. Những lời khai của các tù binh này làm miền bắc tin rằng có rất nhiều toán biệt kích đang hoạt động nơi miền bắc.
-     Urgency: Ngược lại với hoạt động Borden, chọn những tù binh Bắc Việt “cứng đầu”, rồi trả tự do cho họ qua vùng phi quân sự. Khi trở về miến bắc, họ nói sự thật cũng chẳng ai tin tưởng.
-     Oodles: Với những hoạt động thả biệt kích, gửi điệp viên ra miền bắc hoạt động... cứ làm như thật, nhưng tất cả đều giả tạo. Thí dụ như thả dù những tảng đá (đá lạnh) lớn xuống miền bắc. Khi xuống tới đất, nước đá tan hết, nhưng những cánh dù vẫn còn đó, như có toán biệt kích vừa mới xâm nhập.
        Sau nhiều chuyến thả biệt kích xâm nhập miền bắc Việt Nam không thành công, tất cả các biệt kích quân Việt Nam trong các toán biệt kích đều bị giết hoặc bị bắt, giam cầm ngoài miền bắc. Đơn vị SOG chuyển hướng hoạt động, cho những toán biệt kích Sealimagevwraspximgsealstabjq4.jpghải quân (Biệt Hải) đánh phá một số mục tiêu dọc theo bờ biển miền bắc Việt Nam.

TOÁN BIỆT KÍCH, ĐƠN VỊ HATCHET FORCE, ĐƠN VỊ SLAM
        Nói về Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ trên chiến trường Việt Nam, chúng ta hình dung ra những toán A LLĐB, trấn đóng một tiền đồn hẻo lánh, huấn luyện, chiến đấu với sắc dân thiểu số người Mèo, người Thượng. Nói chung, LLĐB/HK có nhiệm vụ yểm trợ cho những hoạt động du kích chiến đằng sau hậu phương địch.
        Khi trận chiến lan rộng, Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát (SOG) là đơn vị đặc trách những hoạt động trong lòng địch. Hành Quân 35 (Oplan 35) được trao cho trách nhiệm tổ chức những chuyến hành quân xâm nhập “vượt biên” qua Lào và Cambodia. Các toán biệt kích trong hành quân 35 được đưa lên các căn cứ hành quân tiền phương (FOB), FOB-1 Phú Bài, FOB-2 Kontum, FOB-3 Khe Sanh, FOB-4 Đà Nẵng, FOB-5 Ban Mê Thuột và FOB-6 trại Hồ Ngọc Tảo, trước khi được trực thăng đưa đi xâm nhập.
        Thường những toán biệt kích trong hành quân 35 có hai hoặc ba quân nhân LLĐB/HK, và chín biệt kích quân người Thượng. Ngoài ra còn có những tiểu đoàn “xung kích” SLAM (Search, Locate, Annihilate, Monitor) gồm bốn đại đội. Đơn vị cấp lớn này cũng hành quân ngoại biên, và phát xuất từ các căn cứ hành quân tiền phương như các toán biệt kích.
        Những toán biệt kích có nhiệm vụ: dò thám đường mòn, khu vực, đặt mìn phá hoại, phục kích, bắt cóc tù binh, thẩm định kết qủa trận đánh bom, điều chỉnh phi cơ pháo binh bắn phá căn cứ, nơi đóng quân của địch, cứu tù binh bị địch giam cầm. Nhiệm vụ cho đơn vị SLAM thường là tấn công, phá hủy binh trạm, căn cứ, kho hàng của địch.
        Trong tháng Mười Một năm 1967, hành quân 35 được tổ chức lại với ba bộ chỉ huy: Bắc (Command and Control North, CCN) ở Đà Nẵng, Trung (Central, CCC) ở Kontum, và Nam (South, CCS) ở Ban Mê Thuột. Khu vực hành quân (ngoại biên) được chia ra: Daniel Boone chạy từ ngả ba biên giới (Việt, Miên, Lào, gần trại LLĐB Ben Het) xuống đến hết miền nam. Prairie Fire từ vùng tam biên trên đất lào, lên đến biên giới với miền bắc Việt Nam. Nickel Steel là khu vực phiá tây vùng phi quân sự. Bộ chỉ huy Nam (CCS) cho những toán biệt kích xâm nhập vùng hành quân Prairie Fire (Lào) và khu vực Alpha (bắc) vùng hành quân Daniel Boone Miên). Bộ chỉ huy Bắc (CCN) lo vùng hành quân Prairie Fire (Lào), và Nickel Steel. Bộ chỉ huy Trung (CCC) chịu trách nhiệm vùng hành quân Prairie Fire (Lào).
        Hành quân Prairie Fire là hậu thân của hành quân Shining Brass, và sau năm 1971 đổi tên Việt Nam là Phù Dung. Hành quân Daniel Boone đổi tên thành Salem House và sau đó thành Thốt Nốt. Nickel Steel trước đó có tên là Double Cross.
        Từ tháng Chín năm 1966, cho đến tháng Tư năm 1971, đơn vị SOG tổ chức hơn 1500 chuyến hành quân xâm nhập qua Lào và Miên. Thâu thập những tin tức chiến lược về quân đội Bắc Việt.  (G.B. Crouse)
Dallas, TX. May 5, 2010
vđh

Trưởng Toán Nguyễn Thái Kiên ngồi thứ hai từ phải ( đội nón đen.) 
 

Lễ Tưởng Niệm Anh Linh Tử Sĩ Nha Kỹ Thuật, hàng đầu từ phải, Đại Úy Kiên, Tr/Tá Văn 75, BK Mộc A Tài, Dân Biểu Loretta Sanchez, Võ Tấn Y và Thị Trưởng Westminster Margie Rice 2009
 
Nhớ nước non xứ Lào .
Trên chiếc phi cơ loại L 20, do phi công Ðài loan lái. Ðại tá Hồ Tiêu, và mt Ðại tá Mỹ ngồi băng giửa; băng sau tôi, và Nguyễn thái Kiên; khoang sau là 2 túi dù, đựng hành trang của 2 đứa. Nguyễn thái Kiên mặt mày buồn so. Chắc có lẻ sau hơn 1 năm, từ Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đổi về Sở Liên Lạc, sống gần gia đình. Nên bửa nay xa nhà, nhớ vợ con chăng?

Sau khi tôi học xong khóa 58 B nhảy dù (chỉ có tôi từ Biệt Ðộng Quân về, chưa có bằng dù phải đi học thôi), chúng tôi 5 SQ gồm: Văn thạch Bích, Nguyễn thái Kiên, Nguyễn văn Thụ, Phạm văn Hy và tôi, lên Trung tâm huấn luyện Long-Thành để nắm toán trưởng.

Cũng nên nói rỏ là: các toán viên đã được huấn luyện thuần thuộc rồi. Mổi toán có 3 quân nhân Mỹ, 9 Việt nam (hoằc Nùng). Các toán dùng tên các Tiểu bang Mỹ để đặt. Nhưng chúng tôi dùng tên toán 1, 2, 3, 4, 5 vân vân. Mấy tuần sau Thiếu uý Phan nhựt Văn lên nắm toán 6. Tôi nắm toán 5.

Về huấn luyện, chúng tôi chỉ cần học kỹ thêm về các loại mìn bẩy, và phá hoại; cùng xữ dụng các loại vũ khí của nước khối cộng-sản. Học điều không tiền tuyến, hướng dẩn phi cơ, chỉ điểm oanh kích. Câu dây trực thăng. Riêng về các bài học liên quan đến thám sát, thì cũng không có gì đặc biệt; như thủ lệnh, xóa bỏ dấu vết, vân vân; thì căn bản cũng giống như các bài học chiến thuật, dạy tại các quân trường.

Riêng phần tôi đã qua 2 khóa : Căn-bản Biệt đng quân, và Hành-quân Biệt-đng-Rừng Núi Sình Lầy rồi, thì khóa Thám sát này, coi như học ôn lại thôi .
Chúng tôi cũng được thực tập hành quân vùng sông Lá buông, mổi chuyến 7 ngày, để các thành phần trong toán ăn khớp với nhau. Về đi hình di chuyển hay vị trí, và xữ dụng vũ khí của mổi người trong toán, thì chúng tôi cùng đồng ý, không có ý kiến gì dị biệt giửa các cố vấn toán. Nhưng theo tổ chức cuả Mỹ, thì 3 cố vấn Mỹ: được gọi là one-zero ( Team-Leader ) one-one ; one-two.

Ð
i hình nếu hành quân 6 người thì toán trưởng đi thứ hai, sau tiền đạo; nếu hành quân 12 người thì toán trưởng đi thứ ba sau 2 tiền đạo. Ðiều này cũng không trở ngại, vì mấy chuyến thực tập, tôi vẩn ở vị trí như vừa nêu. Các toán trưởng khác cũng làm như thế, nhưng có điều khi liên lạc với phi cơ, thì one-zero của toán liên lạc. Ðiều này cũng dể hiểu thôi, vì không có người VN ngồi tiền-không-sát. Nghiểm nhiên người cầm ống liên hợp, điều khiển và chỉ huy luôn. Và lấn cấn bắt đầu từ đây. Phe ta muốn được quyền chỉ huy, phiá Mỹ thì muốn nắm quyền điều động.
Công bằng mà nói: chúng tôi lên Long thành, từ chổ ăn, chổ ngũ, cũng có người lo, quân trang quân dụng đều do phía Mỹ lo hết. Bây giờ họ không được quyền chỉ huy, thì họ đâu có chiụ. Thật sự thì các cố vấn của toán rất tốt, nhưng những cố vấn ở các phòng ban, thì thật khó ưa. Làm như những gì trại phát cho toán, là của riêng cuả nó cho vậy. Tôi nhớ lại lúc ở Biệt-động-quân, mấy tên cố vấn dể thương kể gì. Sợ sỉ quan chúng tôi ra phết. Ở đây nhìn chung mọi người hình như rất nể tụi Mỹ. Các toán trưởng chúng tôi đưa vấn đề này lên Trung-úy Trần-thụy-Ly, sỉ quan liên lạc, hướng dẩn, để trình bày lên thượng cấp. Không biết phải do vấn đề nêu trên không, mà vài ngày sau, tất cả chúng tôi được lệnh rút về. Và kết quả là bây giờ, tôi và Nguyễn thái Kiên đang ngôi trên phi cơ tháp tùng với Ðai-tá Hồ-Tiêu để đi qua Lào .

Ðược biết Sở-liên-lạc có nhận yểm trợ cho Phân khu Tchépone, nơi này có 1 Tiểu đoàn của Hoàng-gia Lào. Không biết tôi và thằng Kiên qua Lào làm trò gì đây? Lúc ở phi trường Tân sơn nhất, tôi có nghe Ðại tá Hồ Tiêu nói chuyện với phi hành đoàn, là phi cơ sẻ ghé Ðà nẳng, để cho vị Ðại tá Mỹ xuống, và đổ xăng luôn. Xong, ra Ðông hà đón 1 sỉ quan Lào, sau đó phi cơ sẻ đáp ở Khe-sanh, và vị sỉ quan Lào này sẻ hướng dẩn phái đoàn qua Tchépone.

Phi cơ theo bờ biển bay về hướng bắc, vì bay thấp nên chúng tôi nhìn thấy nước biển trong xanh, tàu thuyền qua lại rất rỏ. Tiếng phi cơ rì rì êm tai, nên tôi thấy Nguyễn thái Kiên đang ngáy kho kho. Hai ông Ðai-tá vẩn rì rầm nói chuyện. Lúc này tôi bổng nhớ lại đơn vị BÐQ xưa quá. Ðường đi Lào chắc còn xa, vậy quý vị cho tôi nhớ về đơn vị củ mt chút nhé!

Lúc tôi nhận được công điện của Bộ Tổng Tham Mưu về Sở Liên Lạc. Tôi nghỉ chắc có lẻ do ông NQT, tham mưu trưởng SÐ dù xin đây. Thôi thì phen này, sẻ giả từ vũ khí, về đi liên lạc thôi. Năm 1964 các đại đội biệt lập BÐQ tuy là đã sát nhập lại thành Tiểu đoàn rồi. Nhưng các đại đôi vẩn còn biệt phái cho Tiểu khu, Chi khu, ít khi nào gom lại hành quân chung cấp Tiểu đoàn. Tiểu đoàn chưa đưa sỉ quan xuống bàn giao. Nên tôi vẩn phải chờ khoảng gần tháng sau khi nhận được lệnh thuyên chuyển. Tiểu đoàn tôi bị mt trận phục kích, thiệt hại rất nặng. Tiểu đoàn mở đường từ Bình long xuống Lai-khê. Ðại đôi tôi vừa ra khỏi quận Chơn thành hơn 1 cây số thì bị phục kích. Các đại đi đang đóng ở Tân Khai, Tàu ô, vi đi tiếp viện, liền bị chiến thuật ’công đồn đã viện’ của địch. Kết quả Tiểu đoàn trưởng bị bắt, cố vấn Tiểu khu chết; tiểu đoàn chết mất 5 sỉ quan, đại đôi tôi, 1 SQ chết 1 SQ bị thương; phần binh sỉ chết và bị thương rất nhiều. Ðại đi tôi sau trận này, quân số khiển dụng chưa được 60 người. Không có sỉ quan xuống bàn giao thay thế. Suốt ngày nghe vợ con binh sỉ khóc than, chồng vừa chết, đại đi như còn chưa ổn định tinh than. Ở hoàn cảnh này, tôi bỏ đi sao đành. Ðại đi trưởng bị thương, Thiếu úy Tùng trung đi trưởng trung đi 1 chết. Ðại đi chỉ còn tôi là sỉ quan; nên kiêm luôn Ðại đi trưởng. Do đó tôi về trình diện SLL trể hơn 3 tháng. Mt phần tôi dùng dằng không muốn rời đại đi, vì đại đi này, là đơn vị đầu tiên, tôi phục vụ khi mới ra trường sỉ quan. Và trận bị phục kích vừa rồi, 1 đệ tử ruột của tôi bị chết: Binh nhất Chắt. Tôi nhớ đêm đầu tiên ở hậu cứ đại đi, vì lạ chổ, tôi trằn trọc đến khuya, cũng chưa ngũ được. Bổng nghe tiếng ca vọng cổ rất to ngoài vọng gác: Khoan khoan bớ Nguyệt thu Nga tên em 6 năm qua đã đơm bông nở nhụy trong quả tim này .. .. ..sau đó, là vô vọng cổ môt đoạn dài. Suốt đêm hể lúc nào tôi thức giấc đều nghe quen thuc có bấy nhiêu câu hát đó. Sáng hôm sau tôi hỏi Thượng sỉ Khiêm, thường vụ, xem ai hát, mà sau hát hoài suốt đêm cũng chỉ có 1 câu đó thôi. Ðược biết đó là binh I Chắc, sở dỉ hát suốt đêm, là vì các binh sỉ khác vì muốn gần vợ con, nên mướn hạ sỉ Chắt gác thế. Nó người Sông-ông-Ðốc, (Càmau), tướng tá vạm vở; nhưng hiền lành chẩt phác. Trong đại đi nó tải đạn cho súng trung liên. Tôi để ý, đạn nó giử luôn sạch sẻ, balô ngoài đạn trung liên ra, chỉ có võng; mt cái khăn rằng lớn, vừa dùng để làm mền, vừa, dùng để làm khăn tắm; còn lại toàn gạo xấy. Tuy nó không phải ‘tà lọt’, nhưng mổi lần đóng quân, tôi đều gọi nó đến gần, chia sớt đồ ăn cho nó. Mt kỹ niệm khác mà tôi suốt đời chẳng bao giờ quên. Buổi chiều hôm đó sau khi đi mở đường về hậu cứ, tôi đang ngồi đọc báo, thì thấy nó đi qua, đi lại, nhiều lần như muốn hỏi điều gì. Tôi bèn gọi hỏi xem nó cần gì. Chù chừ mãi mt hồi lâu nó mới mở miệng:

Thiếu-úy, Phải con gái tụi nó có 2 lổ,1 lổ tiểu, và mt lổ lửa. Nếu không biết...nhằm vào lổ lửa thì phỏng ...cu phải không ?
Tôi định cười thật to, vì sự khù khờ của nó, vi kềm lại được, bèn hỏi: Ai nói với Anh như thế .
Nó đáp Thượng sỉ Khiêm. Tôi bảo Thượng sỉ Khiêm gạt anh đó. Mà mổi lần đại đi về Bình-long, sao anh không đến Hàng-keo, đi chơi cho biết. Tôi nghỉ hôm nào đai-đi về Bình-long chắc tôi phải dẩn nó đi mt chuyến quá. Tôi bèn giải thích thật cặn kẻ cho nó biết.

Khoảng vài tháng sau, nó cho biết là nó sắp lấy vợ. Nó cưới con Lài, có gánh bán bánh canh; trước mt tiệm hũ tiếu duy nhứt ở quận Chơn thành. Con Lài con nhà lao động, mà nước da trắng bóc, thân hình nẩy nở, thật cân đối. Tôi thấy các HSQ Biệt-động-quân, HSQ Chi khu, có cả mt vài SQ chi khu, cũng thường tán tỉnh. Nhưng lù-khù có ông Cù độ mạng. Nó lại thương thằng Chắt mới lạ. Và từ đó mổi chiều, nếu đại đi không hành quân xa, thì nó ra nhà con Lài giúp đở, những gì nó làm được. Nhìn nó 2 tay xách 2 thùng nước chạy, chớ không phải đi, thì phải biết nó khoẻ như thế nào. Ngày cưới Ông gìa nó từ Càmau lên, xách theo 2 con vịt xiêm thật to. Ðàng trai duy nhứt chỉ có Ba nó, và đại đi 2 chúng tôi. Quần áo của tôi đưa, nó chỉ mặc vừa được cái áo, mà gài nút còn không muốn được. Ðành phải quần ‘treilli’, giày ‘bốt-đờ-sô’. Ðám cưới thật vui, nhậu hơn 10 lít rượu đế . Tôi thấy con Lài mặt mày hớn hở, chạy tới chạy lui, mời mọc mọi người, còn thằng Chắt chỉ biết đứng cười. Dì hai của con Lài cảm động, thỉnh thoảng đưa khăn chậm nước mắt .
Thế mà, 2 tuần sau, thắng Chắt bị tử trận. Con Lài muốn chôn thằng Chắt tại Chơn-thành, không đưa về Càmau. Sáu chiếc hòm được quàn trong hậu cứ. Các bà vợ tử sỉ khác, lăn lộn khóc lóc, tôi thấy con Lài ngồi bất động, mắt nhìn vào khoảng không hàng 15, 20 phút. Tôi nghỉ, cử chỉ này, chứng tỏ mt niềm đau thương rất sâu đậm. Tội nghiệp thằng Chắt, hay những tuổi trẻ VN ở nông thôn như nó. Chiến tranh đã cướp mất đi tuổi thơ. Chưa từng có người yêu, dẩn đi dạo phố. Chưa từng có mt thời làm học trò, biết ghi lưu bút ngày xanh ... . Còn, còn rất nhiều mất mát thiệt thòi khác nửa. Chả bù với chúng tôi, lớp thanh niên thành phố. Nứt mắt 16, 17 tuổi đã là thân chủ thường xuyên, của chị Dậu chị Tình, ở xóm mới Gò vấp từ khuya rồi.
Xin lổi, đã làm quý vị vài giây dao động, xin quay lại theo tôi qua thăm xứ Lào.
Phi cơ đáp phi trường Khe-sanh, sau khi đón vị sỉ quan Lào tai Ðông hà, đã thấy Trung uý Trần thụy Ly, qua trước đó mấy hôm, đang chờ sẳn rồi. Khe sanh cách Ðông hà không xa, mà thời tiết, và cảnh vật thật là cách biệt. Cây cối xanh tươi, khí hậu mát mẻ, tuy mới quá trưa, mà không gian bao trùm mt màn sương mỏng. Không khí thật dể chịu. Phi trường Khe sanh cũng là phi trường cuả trại LLÐB. Khe sanh nằm trong quận Hương hoá, nơi đây trồng rất nhiều càphê. Từ trại theo quốc l 9, qua quận Hương hoá, qua Lao bảo (nơi này có 1 trại tù Chính trị thời Pháp thuộc) qua Làng vây; rồi mới đến biên giới 2 nước .

Ðại tá Hồ Tiêu được vị Ðại tá Lào phân khu Tchépone niềm nở đón tiếp, và đưa vào phòng thuyết trình. Doanh trại đều là nhà tranh, vách đất, phòng thủ sơ sài. Vị sỉ quan ban 3 thuyết trình bằng tiếng Pháp. Tôi phải lôi vốn liếng Pháp văn, từ lúc học trường Lycée Franco-Chinoise ra để theo dỏi buổi thuyết trình. Về tình hình địch, thì cũng không có đơn-vị địch nào xuất hiện gần. Về tình hình bạn, thì chỉ có duy nhất Tiểu đoàn 33 này mà thôi .

Xong buổi thuyết trình. Ðại tá Hồ Tiêu quay về Khe sanh, và trở về Sàigòn cùng buổi chiều hôm đó. Buổi tối, không biết là có dịp lể nào cuả Lào không, nhưng họ nói là có buổi tiếp tân tiếp đón phái đoàn. Máy phát điện được chạy lên sáng khắp doanh trại. Tôi thấy có làm 1 con bò. Và cư dân Lào quanh vùng tập trung về tham dự rất đông. Nghe nói có người ở sát biên giới cũng về tham dự.
Có điều rất ngạc nhiên là 7, 8 chục phần trăm là các cô. Quần áo đều rất tươm tất, loại áo quần bó sát, mà ta thường trông thấy qua những hình ảnh nước Lào. Trang sức nữ trang bằng bạc. Các cô tuổi khoảng từ 17, 18 hoặc quá 25 là cùng. Sắc đẹp thì trên trung bình; chỉ có các bà vợ cuả các sỉ quan, và binh sỉ ,thì da dẻ trông trắng trẻo , có lẻ họ là người thành phố, vì ít lao động chăng. Các cô ở điạ phương, thì phần nhiều mập, và lùn. Chắc đã có chỉ thị, nên các cô vây quanh chúng tôi mời mọc, ăn uống. Có mt món như là bê thui. Chắm mt thứ nước gì sền sệt bỏ vào muổng, rồi khum người lại mời chúng tôi ăn, vừa ngậm miệng lại, chúng tôi không dám nhai, cũng không dám nuốt; bèn bước lui ra ngoài hè nhà để nhổ.
Món nước chấm này, là phần bên trong rut non cuả bò, pha với mt loại nước mắm của Lào, do đó để không bị các cô mời, tôi phải có mt món khác ngậm trong miệng, để các cô thấy, khỏi mời. Sau buổi tiệc là khiêu vũ. Ðiệu nhảy cũng giống như vũ điệu của Thái-lan và Cao-miên. Các cô cũng lôi chúng tôi ra. Có điều chỉ bước tới, đi ngang, 2 tay cứ xoay xoay, cũng dể. Không biết có phải phong tục Lào theo mẩu hệ hay không, mà các cô tự do vui chơi đến sáng.


Thời tiết lạnh lạnh, không khí thật dể chịu. Mặc dù hôm qua trải qua mt chặng đường xa, sáng nay dậy chúng tôi thấy thật khỏe, không thấy mệt. Trung-úy Ly cho biết, nhiệm vụ cuả chúng tôi là nằm ở mt tiền đồn, với binh sỉ hoàng gia Lào, để quan sát 1 đoạn đường xâm nhập cuả địch bằng quân xa mổi đêm (Thời gian này quân xa địch chưa dám chạy ban ngày). Phát hiện báo cáo, số lượng, và mức độ xâm nhập cuả địch mổi đêm. Tuy nhiên cách nay 4 hôm, đoạn đường này vừa bị phi cơ Mỹ oanh-kích dử di. Không còn nghe tiếng xe địch hằng đêm nửa. Chúng tôi chờ lúc nào địch hoạt động trở lại ,thì chúng tôi thi hành công tác. Toán chúng tôi gồm Trung-úy Ly, Kiên, tôi và 2 HSQ truyền tin. Nhưng mổi lần gửi công điện cần quay đầu bò (B phận phát điện) bên phía Lào, đều tăng phái 2 binh sỉ qua làm công tác này. Hai nhân viên truyền tin của ta ngồi chơi khoẻ ru. Mổi buổi sáng, bên B-chỉ-huy Tiểu-đoàn Lào đều mang qua cho bên Việt-nam, một rổ xôi. Xôi họ thổi khô, nhưng rất mềm, và dẻo. Nơi đây không có chợ búa gì cả. Ngày nào ngán xôi, thì mấy HSQ truyền tin rang cơm nguội ,ăn với cá mòi Sumaco. Buồn qúa, tôi rủ thằng Kiên ra ngoài làng chơi. Nó không chiụ đi, cứ ngồi chửi là nó bị ‘Ðì ’,nên đày nó qua đây. Vì lúc cả nhóm đòi phải được quyền chỉ huy, nếu không được; tôi và nó, xin được trở về đơn vị cũ. Tôi không cho là điều nó nghỉ là đúng. Tánh thằng Kiên là vậy; nó nóng nảy nhưng trực tính, việc gì nó cho là không đúng, là nó chưởi toáng cả lên. Bất kể là quan lớn, hay bé. Phần tôi có việc gì nó không đồng ý là nó chữi ‘’Số ngày mày đi lính, không bằng ngày tao bị lậu ‘’.

Mà sự thật: Năm 1954 nó có tham dự trận Ðiện biên phủ. Những người cùng thời với nó bây giờ, đều mang lon ‘quan ba ‘ ‘quan bốn ‘, còn nó vẫn làm ‘ quan một ‘dài dài. Với nó, mà đem chuyện ‘’thi hành trước,khiếu nại sau ‘’thì còn khuya, nó mới làm. Vì tính khí nó như thế, nên sau này nó bị đổi ra bộ binh, làm việc ở Phòng 2 , Quân đoàn I . Thỉnh thoảng có đi công tác về Ðànẳng, tôi có ghé khu phòng vãng lai Sỉ Quan độc thân thăm nó. Bây giờ nó bất mản còn dữ nữa. Cho là đuổi nó ra khỏi ‘nhảy dù’ là làm nhục nó. Thời gian sau, nghe nói nó tình nguyện vào Sở Bắc. Kinh-Kha lúc sang Tần, là thanh niên trai tráng. Còn thằng Kiên thì một vợ 4 , 5 con rồi. Mà nghỉ cũng lạ, thanh niên trai trẻ tình nguyện thiếu gì. Sao lại chọn nó làm chiến sỉ vô danh. Biết rằng, ra đi sẻ không có ngày trở lại. Bị tù gần 20 năm. Vượt biên qua Mỹ, đang lo thủ tục bão lãnh vợ con. Chưa qua được Mỹ đoàn tụ với nó, thì vợ nó đã mất ở Việt-nam. Các bạn nào chưa quen biết nó, mà thấy nó hơi hơi chạm điện, thì hảy thông cảm. Chúng ta mà va vào trường hợp như nó, sợ bây giờ chắc đã theo ông bà, ông vải từ lâu. Rồi thì Ông Trời cũng có mắt. Sau này nó cũng có ở với một bà. Bà sau này, chìu chung, và lo cho nó hết mình. Ðền bù lại những ngày tù đày của nó. Con gái riêng của bà, cũng kính trọng thằng Kiên như cha ruột. Chắc bà sau này, kiếp trước còn mắc nợ nó bây giờ phải trả đây. Giờ thì tính nóng của nó cũng giảm được 5 , 7 phần rồi.

Kiên ơi ! Nếu mày có đọc tới đây, thì tụi mình bây giờ, còn gì nữa đâu :‘’Chiều xuống êm đềm’’nghe Kiên .
Thằng Kiên không đi thì tôi đi môt mình. Làng Husane chỉ cách trại khoảng 1 cây số ,,nằm cạnh sông Tchépone, dưới bóng rợp mát của của những tàng dừa. Ðường làng thật sạch sẻ, phần nhiều là nhà sàn, khác với người Miên và người Thượng, họ không nuôi trâu bò, và gia súc dưới sàn. Dân làng thật cởi mở, hiếu khách, vui vẽ, mời tôi leo thang, lên nhà uống nước. Phần đông việc đồng áng do thanh niên, con gái đều ở nhà; làm việc nhà, hay dệt vải. Khung dệt được đặt dưới sàn nhà. Các cô quỳ, và dùng tay để phóng con thoi qua lại. Phần nhiều mọi nhà đều tự dệt vải để dùng. Vải dệt có những hình hoa văn rất đẹp. Ngồi nhìn các cô dệt suốt buổi, chỉ biết cười, và làm điệu bộ ra dấu thôi, có biết tiếng Lào đâu mà nói. Buổi chiều tôi theo mấy HSQ truyền tin đi tắm sông. Ðoạn sông Tchépone chảy ngang qua làng không sâu, và bờ sông lài lài, nên rất dể dàng lên xuống. Các cô cũng không e then, khi tắm chung với người khác phái. Có điều theo phong tục, họ phải đứng trên dòng nước chảy. Khi các cô muốn xuống nước, thì họ đi từ từ, bên trong cạn, ra sâu, rồi ngồi hụp xuống thật nhanh, cùng động tác, nâng khăn lên, và ném khăn vào bờ. Có nhanh mấy đi nửa, thì tụi tôi cũng nhìn thấy đũ hết rồi. Có thể đến gần, miển là vẩn ở dưới dòng, nước sông không trong lắm, nhưng những gì mình muốn thấy, thì vẫn thấy rỏ rang. Họ đùa giởn thật vô tư. Khi muốn lên bờ, thì một cô quay người ngược về chúng tôi, chạy nhanh lên bờ, choàng khăn xong, từ đó ném khăn xuống cho các bạn. Mấy thuở mà nhìn được một lần 5, 7 sơn nữ Phà-ca cùng tắm sông một lúc, phải không các bạn .

Chưa có công tác, vẩn ngồi chờ. Tôi và thằng Kiên qua Khe-sanh chơi. Quốc l 9 đoạn này còn rất tốt, chưa bị chiến tranh tàn phá. Rừng cây cổ thụ cao, to, 2 bên đường, khiến con đường mát lạnh. Dân khai thác lâm sản, thấy rừng cây cổ thụ 2, 3 người dang tay ôm không hết này, thì mê kể gì. Nếu đường sá thông thương, thì giờ này làm gì còn. Cũng trên đoạn đường này lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn thấy chim trỉ. Lúc nhỏ xem hát bi, thấy đào kép có giắt lông trỉ trên mảo, giờ đây mới thấy tận mắt. Nó thường đi từng cặp. Thấy xe đến gần ,nó chỉ bay tới một đoạn ngắn, rồi đáp xuống cây, đợi xe chúng tôi đến gần mới bay, suốt một đoạn đường dài như vậy. Nếu chúng tôi dừng xe, đứng nhìn, thì con trống xù lông điệu bộ rất đẹp. Thỉnh thoảng cũng thấy mt loại chim như con công, nhưng không to và đẹp bằng .
Quận Hương-hóa chỉ có 1 con đường đc đạo. Cũng có mt vài tiệm tạp hóa, kiêm luôn bán càphê. Hàng hóa khá đắt, vì phải thồ từ Ðông hà lên. Vì là nơi sản xuất nhiều càphê, nên tôi có hỏi về càphê cứt chồn. Ông chủ quán cho biết là: để đi nhặt những hạt càphê do chồn ăn rồi bài tiết ra thì biết bao lâu mới được 1 ký. Riêng ông thì, vì có trồng càphê, những cây gần nhà, ông cứ để cho thật chín ,rụng xuống đất .Chờ thời gian phần thịt bên ngoài hạt càphê vữa đi , nhặt những hạt này về rửa sạch phơi khô. Vì có cùng mt đgià, đ chín, giống nhau, nên hương vị khác hơn những loại khác. Thỉnh thoảng qua Khe-sanh chúng tôi cũng mua được thịt rừng. Buổi cơm chiều đó chúng tôi được bồi dưởng thịt tươi .

Hơn 2 tuần không có việc gì làm, bắt đầu thấy buồn; thì có công điện, 2 đứa chúng tôi phải về trình diện SLL ngay. Thằng Kiên nó mừng kể gì. Chiều ngày hôm sau, là chúng tôi có mặt ở Phòng 3 SLL rồi. Ðược biết là chúng tôi trở lên lại Long-thành, các anh Bích , Thụ và Hy đã lên trước rồi.

Hai tuần vừa qua, xem như vừa được đi du lịch. Cám ơn dân làng Husane, cám ơn Tchépone, cám ơn những sơn nữ Phà-ca, đã cho tôi 2 tuần lể khó quên.
Chúng tôi lại trở về toán củ. Bây giờ, sau khi đã được bàn cải ở cấp cao, giửa 2 bên Mỹ-Việt. Tiếng Counterpart được thay thế tiếng Advisor. Nghiã là không có ai chỉ huy ai. Hai bên quyền hạng như nhau. Chúng tôi bắt đầu nhận công tác hành quân. Bắt đầu những chuyến đi, mà ‘ mười lần đi ,có đôi ba lần không trở lại ‘.
Năm 1969 tôi có dịp hành quân trở lại vùng này .Những hố bom B 52 chi chít. Ðường quốc l 9 đã bị cày nát nhiều đọan. Làng mạc tiêu điều. Thật kinh khủng. Không biết những Sơn nữ Phà Ca xưa, nay còn hay mất. Trôi lạc phương trời nào.
Lê Minh.


Hello Nguyễn-thái Kiên.
Biết Mày bị bệnh nặng mấy tháng nay. Nhưng tin Mày ra đi, cũng làm Tao bàng hoàng không ít. Trứoc sau gì cũng phải 1 lần ra đi thôi! Sao Mày lại giành đi sớm quá vậy. Không chấp hành ‘’hệ thống quân-giai gì cả.‘’ Còn 5 , 6 Ông ‘’Cù-Lũ’’còn khả năng, ăn 10 , 15 Mùa Noel nửa mới chịu đi mà Mày lại qua mặt dọt đi trước. Chắc không khỏi lảnh 15 củ.
6 thằng Toán-trưởng đầu tiên, Thằng Văn, thằng Bích, rồi bây giờ đến phiên Mày giành đi trước. Còn thằng Thụ, thằng Hy muốn đi lúc nào thì đi; phần Tao, Tao tình nguyện đi cuối cùng. OK .
Tao có viết 1 bài, có nói về Mày. Cháu Khuê đã đánh máy xong cả rồi, dự trù sẻ đăng vào đặc-san ngày Ðại-hi 8 cuối tháng 5 năm 2010. Bây giờ Mày ra đi sớm qúa .Tờ báo chưa in, nên Tao vi viết vài dòng và gữi bài viết cho Mày đọc trước.
Mày được tụi tao đặt cho ‘’Nick-name’’ là Kiên khùng. Nhưng cái khùng của Mày thật dể thương, không làm ai giận cả. Ðôi khi cơn khùng của Mày mang chút gì Anh-Hùng trong đó. Tao không biết Mày sẻ đi đến đâu, ngoài cái thế-giới ta-bà này. Nhưng Tao mong, nơi nào Mày sắp đến đó : Mày sẻ gặp lại Bà-Xã Mày. Người Ðàn-Bà mà mt đời đã hết lòng lo cho Mày.
Bạn Mày .
Lê-Minh .



Kiên đã ra đi.
Mấy năm trước anh Kiên thường gọi tôi có khi hàng tuần. Mỗi lần có khi nói với nhau cả vài tiếng. Tuy thế vài năm gần đây không thấy anh ấy gọi nữa, tôi nghĩ là anh ấy giận gì đó, không ngờ anh ấy đau.
Nay thì Kiên không còn nữa.
Thương cho anh Kiên và cũng thương cho Chị Kiên, người phụ nữ hiền thục ở Ngã Ba Ông Tạ. Chị thắt lưng buộc bụng nuôi con chờ chồng từ năm 1968 khi anh tình nguyện nhảy ra Bắc lúc ba bốn đứa con còn thơ dại. Lúc anh sắp đi, tôi đã nhiều lần cản, bảo với anh: ”Có ai bắt mày phải đi đâu mà mày đày đọa thân mày và vợ con mày”. Anh trả lời: “Tao phải đi để cho người ta biết.” Tôi hiểu “người ta” đây là ai.
Thế rồi sau bao nhiêu năm đọa đày trong lao tù VC, anh được tha về trước tôi khoảng một năm. Gặp lại nhau ở Ông Tạ năm 1983, mừng mừng tủi tủi, tôi đến thăm Chị Kiên vẫn ở ngôi nhà cũ lúc anh ra đi. Lúc ấy anh Kiên miệng luôn chửi VC không hề sợ sệt. Chị Kiên một lần nói với tôi: “Chắc tôi phải lo cho ông ấy đi ngay chứ không cứ như thế này thì lại vào tù thôi”. Thế là anh vượt biên một mình để chị lại tiếp tục trong cảnh đợi chờ. Vài năm sau thì Chị mất ở VN trong cảnh mòn mỏi đợi chờ (theo lời anh Kiên kể). Chị là người có một không hai. Người phụ nữ đáng kính ấy nay ở đâu!!!
Khi mới về SLL vào cuối năm 1963, tôi gặp anh Kiên, lúc ấy anh còn là Thiếu úy làm trưởng ban quân số Phòng HC SLL. Anh gốc Nhảy dù, còn tôi gốc Bộ binh thuộc Trung đoàn 46 BB từ Hậu Nghiã thuyên chuyển về. Mẵc dù dã bị thương vài lần trưóc khi về SLL, tôi vẫn thấy mặc cảm và phục mấy ông mũ đỏ sát đất nên luôn lễ phép với với anh, một điều thưa thiếu úy, hai điều thưa thiếu úy. Tôi đã bỏ lối xưng hô lễ phép này với anh sau một lần anh chửi tôi: “Thiếu úy cái con C…, tao muốn từ nay mày bỏ cái lối ấy đi.”
Dù rằng sau đó chúng tôi mày tao chi tớ theo ý muốn của anh nhưng tôi vẫn luôn kính trọng anh vì anh hơn tôi cả chục tuổi. Anh luôn đối xử với tôi như anh là một đàn anh chính hiệu. Bất cứ cái gì tôi nhờ anh, anh đều giúp đỡ tận tình giọng điệu luôn kẻ cả che trở của người lớn. Tôi nhớ sau khi về SLL được vài tuần nhưng tôi vẫn chưa thấy Tống Hồ Huấn, người cùng danh sách được thuyên chuyển với tôi từ Trung đoàn 46 BB về SLL đáo nhậm đơn vị, tôi đến hỏi anh. Anh nói ngay: “ Cậu đừng lo, tao chỉ gởi một công điện là tuần sau nó về đây ngay”, và anh cho tôi xem công điện anh thảo. Trong đó có một câu cuối mà tôi nhớ rất rõ: “Mọi sự chậm trễ, đơn vị trưởng hoàn toàn chịu trách nhiệm”. Và đúng như anh nói, khoảng tuần sau đó thì Tống Hồ Huấn về trình diện.
Có lần anh tâm sự với tôi về gia đình. Anh nói: “Bây giờ tao chỉ có vợ con thôi. Vợ tao là do tao một mình tự lo từ cơi trầu đám hỏi cho đến lúc cưới, một mình lo cho mình”. Anh rất thương vợ con và mọi sự chỉ cho vợ con. Anh không hề trai gái đàng điếm ăn chơi la cà hàng quán.
Năm 1968 khi tôi được gọi tái ngũ thì đúng vào dịp anh bị đổi đi khỏi SLL ra Quân Ðoàn 1. Hôm anh đi, tình cờ tôi cũng đi phép về Ðà Nẵng thăm gia đình, và tôi đã đưa anh đến tạm trú ở nhà Chị ruột tôi taị Cư xá Thống Nhất Ðà Nẵng trước khi anh đáo nhậm đơn vị mới. Tuy thế chỉ một thời gian ngắn sau tôi lại gặp anh ở Sài Gòn. Anh tình nguyện về Nha Kỹ Thuật để vào các toán ra Bắc cùng một thời điểm với nhóm anh Nguyễn Hữu Luyện.
Năm 1984 sang đến Pulau Bidong thì tôi nghe tin anh Kiên vừa chuyển về Sungai Besi ít lâu. Không ngờ cứ như đuổi ma, khi tôi sang đến đấy thì anh đã đi, và rồi mãi đến những năm cuối của Thiên niên kỷ cũ tôi mới gặp lại anh ở Los Angeles. Hôm ấy Lê Minh đón anh rồi đưa anh về China Town Los Angeles. Chúng tôi rủ anh đi ăn ở Phở Hòa China Town. Ăn xong, tôi đi long vòng với anh, chúng tôi ghé vào một tiệm bán báo và lịch. Thấy anh mân mê cuốn Penthouses của Hồng Kông, tôi liền mua tặng anh một cuốn. Anh cười hô hố, giọng oang oang đầy tiềm lực. Mặc dù lúc đó trông anh đã rất già, tôi vẫn có cảm nghĩ là anh sẽ sống đến cả trăm tuổi chứ không ít.
Năm NKT tổ chức giỗ cho các Chiến Hữu ở vùng Las Vegas, vì bận công việc tôi không tham dự được, anh Kiên đã gọi ngay cho tôi khi trở về và kể cho tôi chuyện đụng đầu với “ông bạn BKQ cũ ở Long Thành ” Hoàng Phong Linh. Tôi biết tính anh nên chỉ nghe và cười chứ không dám có ý kiến gì.
Anh Kiên tính nóng nhưng rất trực tính. Anh là ngưòi chưa hề biết sợ là gì. Anh rất tốt bụng, nếu đã giúp đỡ ai cái gì là anh giúp tận tình. Ði với anh nhiều khi tôi có cảm tưởng là nếu ai đụng đến tôi chắc phải khốn đốn với anh. Nhớ anh những ngày ở SLL, nhất là những đêm anh trực nhật, và ở Long Thành với những ca trực gác tuần tiễu ban đêm. Nhớ anh những lần anh bắn lủng cả trần CLB ở SLL khi anh từ Long Thành về.
Tuy không chắc chắn về tuổi của anh nhưng tôi nghĩ anh đang ở tuổi 8 bó. Nay ngồi đây viết về vài kỷ niệm với anh, lòng thấy bùi ngùi thương anh Kiên, thương Chị Kiên, thương các con cháu anh Kiên. Họ là những người VN với hai vai mang nặng những thảm họa trong cuộc chiến đấu của chúng ta chống lại Cộng Sản.
Xin nghiêng mình trước vong hồn Anh Kiên và Chị Kiên khu Ông Tạ.
Xin chia buồn với Chị Kiên Mới và tang quyến.
Trần Trung Ginh và Gia đình
Doi loi ve su can truong va hy sinh cua anh Kien!
Bang hoang khi nghe tin anh Kien gia tu ban be ra di,qua bat ngo,toi duoc biet anh Kien trong suot thoi gian huan luyen tai Long Thanh cung nhu nhung cuoc hanh quan thuc tap tai DaLat, sau do lai tham du cuoc hanh trinh cua anh di vao long dat dich,vao dem thang 9/21/1967 trong chuyen bay dem tren phi co C130, ngoai phi hanh doan toan nguoi My ,toi la nguoi VN duy nhat tren chuyen bay, phi vu that vat va nguy hiem vi phai dung ky thuat bay tranh tam hoa tien cua dich, toi rat suy tu ve su hy sinh cua anh, voi cap bac D/U va tuoi doi cua anh, le ra anh khong can phai chap nhan su hy sinh nhu vay, tuy nhien anh van chap nhan ra di, toi dam nhiem cua mot Jump Master tren phi co, co nhiem vu mac do trang bi deo du, de chuan bi san sang cho cuoc hanh quan nhay du vao long dat dich tren vung troi Bac Viet, neu ke het ve chuyen bay dinh menh do thi rat dai, tuy nhien do la lan chot toi cam nhan duoc su hy sinh vo bo ben cua anh,
Hom nay nhan duoc tin anh da vinh vien ra, toi xin thap nen huong long tuong nho den anh , cau nguyen anh duoc vien man
Tuu Nguyen Denver Colorado




6 comments:


  1. Báo tin buồn.
    Tổng hội nhận được tin buồn từ Hội Gia Đình BK Ở Atlanta .GA cho biết Niên Trưởng Đại Uý NKT Nguyễn Thái Kiên Trưởng Toán Red Dragon đã vỉnh biệt các Chiến Hữu lúc 4 giờ chiều ngày 26 tháng 11 năm 2009 bên gia đình .
    Mọi liên lạc Phân ưu chia buồn về địa chỉ email chinhnghia@aol.com nhờ chuyễn đến gia đình .
    Trân trọng báo tin đính kèm email bên dưới
    Kính báo
    TM.BCH/TH
    Ch/h Võ tấn Y
    Reply
  2. Cáo Phó
    Gia đình Biệt Kích Atlanta, Georga vô cùng đau đớn kính báo đến toàn thể quý chiến hữu
    Phê rô Nguyễn Thái Kiên
    Sanh ngày 27-5-1928
    Cựu đại uý thuộc NKT/TTM/QLVNCH
    toán trưởng Red Dragon
    đã về cõi vĩnh hằng vào lúc 16:00 ngày 26/11/2009
    trong niềm thương tiếc của gia đình và các chiến hữu trong Gia Đình Biệt Kích GA
    hưởng thọ 81 tuổi
    Tang lễ sẽ bắt đầu từ 8 am Chúa nhật 29/11/2009 tại Nhà Thờ Các Thánh Tử Đạo
    chấm dứt sau khi hạ quan 11 am cùng ngày.

    Thay mặt Gia Đình Biệt Kích GA
    HT Hà văn Sơn
    Reply
  3. Dear Sir(s)
    Happy Thanksgiving to all, I am very difficult to report to you on holiday season that Mr. Nguyen Thai Kien SOA # 2296 OA passed away at 1600 hrs (Georgia), Thursday Nov. 26,2009 in his home by bladder cancel. He was a team leader team Dakota, Dragon, OP-34A inserted to North Vietnam, his “Dragon” team members and he were captured on Oct. 30, 1967, he was released on 1982, 1984 he was escaped from Vietnam for resettled in the USA. He will be missed from his comrades.
    Sincerely, Khanh (cowboy) Doan SOA # 1233GL
    Contact his survival:
    Mrs. Nguyen Thai Kien (707) 803-9870
    Or her daughter Ly (404) 217-5231
    Address:
    159 Windy Hill Road
    Marietta , GA 30060
    Reply
  4. This comment has been removed by the author.
    Reply
  5. Kính gửi quí Niên Trưởng, Chiến Hữu, Hậu Duệ Nha Kỹ Thuật.
    Chiều nay lúc khoảng 5 giờ (CA) 11/29/09 tức là 8 giờ (GA) tôi có liên lạc với anh Hiếu (770)896-4213 là chiến hữu thân và cư ngụ gần với Anh Kiên hầu thăm hỏi vấn đề mai táng anh Kiên diễn ra thế nào, đồng thời thăm dò "gia đình có nhận phúng điếu không?", sau đó gọi số phone cô Ly "con anh Kiên" (404)217-5231 nhờ chuyển máy nói chuyện với chị Kiên, chi. cho biết hiện nay chị rất buồn, tạm thời chị qua ở với cô con gái, chị cho biết nguyện vọng của anh Kiên được xem là đúng như ý của anh, anh được phủ 2 Quốc Kỳ (Mỹ+Việt-nam); Vấn đề phúng điếu chị cho biết, chị tỏ lòng xin chân thành đa tạ đến các Niên Trưởng, Chiến Hữu, Hậu Duệ Nha Kỹ thuật có lòng tha thiết lưu luyến quan tâm, lo lắng đến với anh Kiên và gia đình; Tuy nhiên chị và gia đình KHÔNG NHẬN PHÚNG ĐIẾU, có nói khó thêm thì chị có bảo rằng "nguyện vọng anh Kiên là giúp các Chiến Hữu con kẹt ở VN" hoặc là giúp người nghèo hoặc tùy hỷ xin cầu nguyện cho anh tùy tôn giáo.
    Chi sẵn sàng đón nhận lời thăm hỏi của toàn thể quí vị qua số phone (770) 333-8241 nhà người con gái tên LY.
    Trân Trọng kính báo
    Khánh Đoàn.
    Reply
  6. Vĩnh Biệt Biệt Kích Nguyễn Thái Kiên
    Đại Uý NKT/TTM/QLVNCH
    Toán Trưởng Red Dragon

    Cáo Phó

    Gia đình Biệt Kích Atlanta, Georgia vô cùng đau đớn kính báo đến toàn thể quý chiến hữu

    Phê rô Nguyễn Thái Kiên
    Sanh ngày 27-5-1928
    Cựu đại uý thuộc NKT/TTM/QLVNCH
    toán trưởng Red Dragon
    đã về cõi vĩnh hằng vào lúc 16:00 ngày 26/11/2009

    trong niềm thương tiếc của gia đình và các chiến hữu trong Gia Đình Biệt Kích GA
    hưởng thọ 81 tuổi

    Tang lễ sẽ bắt đầu từ 8 am – 11 am chúa nhật 29/11/2009
    tại Nhà Thờ Các Thánh Tử Đạo
    Thay mặt Gia Đình Biệt Kích GA

    HT Hà văn Sơn

    *
    Bà quả phụ Hà Sao Dung*
    Trưởng nữ Li Di Hà chồng và các con*
    Thứ nữ Lan Di Hà và con*
    Út nữ Kristina (Lệ) Hà và con
    Các con:

    1- Trưởng Nam Nguyễn Thái Dũng vợ và các con
    2- Trưởng nữ Nguyễn Thuý Nga chồng và các con
    3- Thứ Nam Nguyễn Thái Trung vợ và các con
    4- Thứ Nam Nguyễn Thái Sơn vợ và các con
    5- Thứ Nam Nguyễn Thái Lâm vợ và các con
    6- Thứ Nam Nguyễn Chí Minh