Tuesday, March 26, 2019

Họp Báo Dự Án Thành Lập Nghĩa Trang Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa và Nam Hàn - Veteran's Cemetery Site Mountain Park 280 Acre Parcel (City of Anaheim)


Video


VIDEO
Video
https://www.nguoi-viet.com/little-saigon/gsv-andrew-tro-thanh-chu-tich-hoi-dong-giam-sat-orange-county/


https://www.nguoi-viet.com/little-saigon/orange-county-xem-xet-lap-nghia-trang-cho-cuu-chien-si-vnch/


VIDEO Video
Anh Phạm Hòa, sĩ quan Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH trả lời phỏng vấn của Viễn Đông. (Thanh Phong/Viễn Đông)

Hội Đồng Giám Sát Quận Cam chấp thuận đề nghị của GSV Andrew Đỗ thành lập Nghĩa Trang Quân, Công, Cán Chính VNCH và Nam Hàn


GSV Andrew Đỗ đang chỉ vào bản đồ và trình bày khu đất làm Nghĩa Trang Quân, Công, Cán Chính VNCH và Nam Hàn. (Thanh Phong/Viễn Đông)
Bài THANH PHONG
SANTA ANA - Luật Sư Andrew Đỗ, Giám Sát Viên Địa Hạt 1 vừa đưa ra đề nghị thành lập Nghĩa Trang dành cho các cựu Quân Nhân, Công Chức, Cán Bộ VNCH và Nam Hàn tại Mountain Park (City Anaheim). Đề nghị của GSV Andrew Đỗ đã được Hội Đồng Giám Sát Quận Cam nhanh chóng chấp thuận vào lúc 9 giờ 40 sáng thứ Ba, ngày 26 tháng 3, 2019.
Trước khi Hội Đồng Giám Sát họp để quyết định, GSV Andrew Đỗ đã mở cuộc họp báo tại phòng khách của Hội Đồng Giám Sát ở địa chỉ 333 W. Santa Ana Blvd, Santa Ana. Tham dự cuộc họp báo có phóng viên hai nhật báo Viễn Đông, Việt Báo, ký giả Kiều Mỹ Duyên, bà Như Hảo, Giám Đốc Đài Radio Mẹ Việt Nam và bà Bùi Bích Hà, phóng viên đài truyền hình SBTN, SET. Một số cơ quan truyền thông khác đến sớm nhưng lại ngồi ở phòng họp HĐGS nên không có mặt trong cuộc họp báo.

Mở đầu cuộc họp báo, LS Andrew Đỗ ngỏ lời cám ơn các cơ quan truyền thông đã tới tham dự. Sau đó, ông cho biết, ngay từ khi đắc cử vào chức vụ Giám Sát Viên ông đã nghĩ đến việc này, vì khi còn ở trong nước, dù tuổi còn nhỏ ông đã được coi trên truyền hình, nhìn thấy những sự chiến đấu vô cùng anh dũng của Quân Lực VNCH và những sự hy sinh cao cả của họ cho tổ quốc. Qua Hoa Kỳ, dù tham gia vào dòng chính, dù đang là một công chức của chính quyền Hoa Kỳ, ông vẫn nhớ mình là người Việt Nam, và ông muốn mình phải làm một cái gì đó để đền ơn đáp nghĩa các cựu chiến binh VNCH đã hy sinh bảo vệ miền Nam Việt Nam, và ông nghĩ đến một nghĩa trang như nghĩa trang Biên Hòa tại quê nhà. Vì là một trong các vị đại diện cho cư dân Quận Cam, ông biết mình phải phục vụ chung cho các sắc dân và phải có một tầm nhìn xa. Do đó, khi nghĩ đến việc thành lập một nghĩa trang cho các cựu quân nhân QL/VNCH, ông cũng nghĩ đến các quân nhân người Nam Hàn, họ cũng đã chiến đấu cho sự tự do, không chỉ cho tổ quốc của họ mà họ còn là một đồng minh tham chiến tại Việt Nam để cùng với QL/VNCH đánh đuổi quân Cộng Sản Bắc Việt.
LS Andrew Đỗ nói, “Với lá phiếu hôm nay, Hội Đồng Giám Sát Quận Cam và Cộng Đồng chúng ta sẽ đánh dấu một sự vinh danh cho Cộng Đồng Người Việt không chỉ tại Quận Cam mà còn trên toàn thể hải ngoại. Đây là một quyết định lịch sử cho đề nghị của chúng tôi để HĐGS cho phép thành lập một nghĩa trang mang danh là Nghĩa Trang Quân, Công, Cán, Chính VNCH tại Quận Cam. Nghĩa trang này sẽ ở bên cạnh một nghĩa trang sẽ được thành lập cùng địa điểm cho các cựu chiến binh Hoa Kỳ. Nghĩa trang này sẽ dành cho Quân Nhân, Công Chức, Cán Bộ VNCH cũng như của Quân, Cán, Chính Nam Hàn đang sống tại Quận Cam. Toàn thể khu đất có tên là Mountain Park nằm ở góc Riverside Fwy SR91 và Toll Road SR 241, rộng 280 Acre Parcel, thành phố Anheim, cách ranh giới Quận Riverside 2 miles. Theo đề nghị của GSV Andrew Đỗ, 50% đất sẽ dành cho các chiến binh Hoa Kỳ, 10% dành cho Quân, Công, Cán Chính VNCH và Nam Hàn.


Hội Đồng Giám Sát Quận Cam biểu quyết chấp thuận đề nghị của GSV Andrew Đỗ. (Thanh Phong/Viễn Đông)

Sau lời trình bày của GSV Andrew Đỗ, ký giả Kiều Mỹ Duyên hỏi, vợ của cựu chiến binh VNCH khi mất có được an nghỉ tại nghĩa trang này không? GSV Andrew Đỗ cho biết, sẽ bàn với HĐGS để thêm vào ý kiến rất thực tế này vào nghị trình.
Bà Như Hảo hỏi: GSV Andrew Đỗ có ủng hộ nghĩa trang Biên Hòa do BS Trung Chỉnh thành lập không? Ông trả lời: Chúng ta có nhiều cựu chiến binh VNCH ở rải rác khắp nơi nên có nhiều nghĩa trang càng tốt.
Bà An Nguyễn hỏi: Làm nghĩa trang sẽ tốn rất nhiều tiền, tiền đó lấy từ đâu? GSV Andrew Đỗ trả lời: Mỗi mẫu đất có thể chôn 500 người, chúng ta có khả năng sử dụng 50 năm mới hết đất, nên mỗi năm chúng ta làm một ít thì tốn kém sẽ không bao nhiêu..
Sau họp báo, tất cả vào phòng họp của HĐGS để theo dõi kết quả. Một số người tham dự, trong đó có ông Bill Cook, một cựu chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến tại VN phát biểu ủng hộ đề nghị của GSV Andrew Đỗ.
Chủ Tịch HĐGS mời GSV Andrew Đỗ phát biểu. Sau lời trình bày của GSV Đỗ (Địa Hạt 1), các GSV Michelle Stell (Địa Hạt 2), Vacant (ĐH 3), Doug Chaffee(ĐH 4) và Lisa Barlett (Chủ Tịch HĐGS) đều chấp thuận đề nghị cũa GSV Andrew Đỗ, và buổi họp kết thúc.


Ông Bill Cook, cựu chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến tại VN, lên tiếng ủng hộ sáng kiến của GSV Andrew Đỗ. (Thanh Phong/Viễn Đông)
Trong dịp này, chúng tôi phỏng vấn hai cựu sĩ quan QL/VNCH có mặt trong buổi họp. Anh Phạm Hòa, sĩ quan thuộc Nha Kỹ Thuật, Bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH, Trưởng Đoàn Công Tác 72. Anh nói, “Tôi rất ngạc nhiên khi biết tin GSV Andrew Đỗ đã xin được khu đất ở Anaheim Hill để làm Nghĩa Trang dành cho QL/VNCH và cựu quân nhân Nam Hàn. Tôi rất xúc động. Từ trước tới nay, các nghĩa trang quân đội tại Hoa Kỳ chỉ dành riêng cho các quân nhân QL Mỹ, còn các cựu chiến binh VNCH và Nam Hàn gần như bị quên lãng. Nếu thực hiện được công trình này là việc rất lớn lao và ý nghĩa nên chúng tôi tới đây để hỗ trợ cho GSV Andrew Đỗ và cám ơn ông đã nghĩ đến các cựu quân nhân VNCH chúng tôi.”
Đại Tá Lê Bá Khiếu, nguyên Tỉnh Trưởng Tỉnh Quảng Ngãi, nói, “Rất khó khăn mà tìm được khu đất như thế này. Nếu HĐGS hôm nay chấp thuận cho làm Nghĩa Trang Quân Đội VNCH dành cho quân nhân, công chức, cán bộ chính quyền VNCH thì đó là niềm vui. Bốn-mươi bốn năm rồi, tưởng rằng mọi người đã quên 250 ngàn binh sĩ VNCH và 59 ngàn quân nhân Hoa Kỳ và đồng minh đã hy sinh tại Việt Nam. Nhưng họ không quên, ông GSV Andrew Đỗ đã tìm được khu đất ngay tại Anaheim, rất gần gũi chúng ta, và tôi hy vọng lát nữa đây sẽ có kết quả. Đây là niềm an ủi cho người Việt Nam chúng ta.”



 






















Wednesday, March 20, 2019

Trung Sĩ Nhất Thái Phi Hùng Đoàn Công Tác 72 / Chiến Đoàn 1 Xung Kích / Lực Lượng Đặc Biệt, đã tung cánh dù bay xa.

 Kính gửi quý Niên Trưởng và Các anh chị trong gia đình Nha Kỹ Thuật
 Tôi là . Thái thị Thanh Duyên  em gái Thái Phi Hùng. 
...Xin thay mặt anh trai đã  quá cố  nói lời cảm ơn đến NT Nguyễn Phan Tựu Đoàn 72, Anh Lâm Ngọc Chiêu BCH NKT, Anh Nguyễn Đức Lâm Đoàn 11/72, Anh Nguyễn Rinh Đoàn 72 và những anh chị đã giúp đở anh Thái Phi Hùng trong quá khứ
  Nhờ sự giúp đỡ tận tình của quý anh chị, mà anh tôi đã  kéo dài sự sống được 2 năm với những căn bịnh ngặt nghèo, Hai năm kéo dài sự sống dưới vùng trời hạn hẹp không có tự do không có  nhân quyền, chỉ nhờ sự đùm bọc của quý anh chị .......Và rồi  anh tôi đã  ra đi vĩnh viễn vào ngày 20 /3/2019 . Một lần nữa  anh Trai tôi lại nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình  của quý anh chị ....... Để có một nơi an nghĩ  cuối cùng  tử tế  .

Kính thưa  quý Anh Chị,
Gia đình  Thái phi Hùng và Đại Gia Đình  họ Thái  nói chung.. 
Xin gởi đến quý anh chị Lòng  biết ơn chân thành  sâu sắc  nhất  ...
Em Thái Thị Thanh Duyên 

Xin thông báo đến quý Niên Trưởng và các Chiến Hữu.
Trung Sĩ Nhất Thái Phi Hùng (1947-2019)
Từng phục vụ tại Đoàn Công Tác 72, Chiến Đoàn 1 Xung Kích và Lực Lượng Đặc Biệt đã tung cánh dù bay cao vào lúc 13:15 pm Ngày 20 tháng 3 năm 2019 tại Việt Nam.
Tang lễ sẽ cử hành vào lúc 8 giờ sáng ngày 18 tháng 2 âm lịch, tức ngày Thứ Bảy 23 tháng 3 năm 2019

Tại Phú Túc Krongpa, Tỉnh Gia Lai

Liên lạc: Thái Thị Thanh Duyên em gái Tr/Sĩ 1 Thái Phi Hùng
số điện thoại 0935021246 hay
email: thaithanhduyen57@gmail.com

Tin tức cập nhật sẽ thông báo trên trang Blog Chiến Sĩ Vô Danh Việt Nam và trên e-mail group. 


 Toán 723 Đoàn Công Tác 72 sau chuyến hành quân Tam Biên 1972 
Tr/Sĩ Nhất Thái Phi Hùng ngồi giữa


Toán Công Tác Đặc Biệt thuộc Đoàn Công Tác 72 gồm 3 Sĩ Quan và 9 Hạ Sĩ Quan công tác 20 ngày khu vực Tỉnh Quảng Nam gần ngả ba tam biên 

Video

Sunday, March 17, 2019

Thiếu Tá Lê Minh tại Dinh Độc Lập khi cộng sản chiếm Miền Nam

Ký giả người Đức Borries Gallasch, người chứng kiến cả 2 sự kiện lịch sử lúc VC tiến vào Dinh Độc lập và lúc Dương Văn Minh đọc diễn văn đầu hàng tại Đài phát thanh. Người bên tay trái của Ký Giả Borries Gallasch là Thiếu Tá Lê Minh CHT Đoàn 2 Liên Lạc Nha Kỹ Thuật.
  Video và Hình Ảnh
 Dinh Độc Lập trưa ngày 30-4-1975 trong số này có anh em thuộc Đoàn 2 Sở Liên Lạc


 Phóng Viên Người Đức Borries Gallasch

 Borries Gallasch

  Bà Borries Gallasch mang hồi ký của chồng tặng VC

 Tướng Minh 

Tài liệu "Bên Thắng Cuộc" Huy Đức cho biết:
Lúc đó là 10 giờ 45 phút ngày 30-4-1975. Trước đó ít phút, khi Tiểu đoàn trưởng Lôi Hổ (Thiếu Tá Lê Minh) phòng thủ Tân Sơn Nhất bỏ đi, một dân biểu thuộc lực lượng thứ ba, Trung tá Nguyễn Văn Binh, đã cẩn thận đóng cổng Dinh Độc Lập. Hành động này của Trung tá Nguyễn Văn Binh đã điều chỉnh một chi tiết trong lịch sử: Chiếc tăng 843
đi theo đường Thống Nhất từ Sở Thú tới trước rồi dừng lại trước cổng phụ trong khi xe tăng 390 tới sau, nhưng hùng dũng húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập, cánh cửa cuối cùng của cuộc chiến.
Vào lúc 9 giờ 30 phút sáng 30-4, khi ở phía Tây Sài Gòn, ông Võ Văn Kiệt ra lệnh “giản chính đồ đạc”, ở phía Đông, Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn
tăng 203, cũng nghe được tuyên bố của Tướng Dương Văn Minh qua chiếc radio mà ông luôn đeo bên người. Phía sau ông, Tư lệnh Quân đoàn II, Tướng Nguyễn Hữu
An, luôn theo sát đốc chiến. Họ như những người lính xung trận linh cảm được chiến thắng, càng nóng lòng hơn khi có thể “sờ” thấy ở phía trước mục tiêu cuối cùng.
Đêm 29-4, Tướng Nguyễn Hữu An gửi thư cho Lữ đoàn 203. Bức thư được Trung tá Bùi Tùng ghi chú “Nhận lúc 24 giờ ngày 29-4-1975” viết: “Anh Tài và Tùng. Bảy
chiếc tăng và một bộ phận bộ binh đã đến cầu xa lộ Biên Hòa gặp bộ phận đặc công của 116 giữ đã hai ngày nay. Tình hình như vậy là thuận lợi do đó phải mạnh dạn tiến lên, đừng để bọn tàn binh lẻ tẻ nó cản trở. Cố gắng đưa toàn bộ đội hình của các anh qua bên Tây cầu đêm nay và độ 3-4 giờ sáng 30-4 là ta xốc được tới Sài Gòn chiếm xong cầu Rạch Chiếc và Tân Cảng đến cầu Sài Gòn. Tôi đã nói anh Ân cho 2d (tiểu đoàn) của E9 tràn về phía cầu xa lộ Biên Hòa. Các anh thi hành khẩn trương và giữ liên lạc với tôi thường xuyên. Mục tiêu vào Sài Gòn là Dinh Tổng thống – Đài Phát thanh, BTL (Bộ Tư lệnh) Hải quân, ngân hàng, phủ đặc ủy trung ương tình báo./An”.
Trước đó, vào lúc 10 giờ ngày 29-4-1975, ngay sau khi Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho quân đội Sài Gòn ngừng di quân, Bộ Chính trị điện: “Gửi anh Sáu, anh Bảy, anh Tư, / Đồng điện anh Tấn,/Bộ Chính trị và Quân uỷ đang họp thì được tin Dương Văn Minh ra lệnh ngừng bắn. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị: Các anh ra lệnh cho quân ta tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch; tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí toàn bộ quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng. Công bố đặt thành phố Sài Gòn-Gia Định dưới quyền của Uỷ Ban Quân Quản do tướng Trần Văn Trà làm chủ tịch. Sẽ có điện tiếp, nhận được điện trả lời ngay. Ba”25.
Rạng sáng ngày 30-4-1975, những chiếc tăng đầu tiên của Lữ đoàn 203 chạy đến căn cứ Nước Trong, Long Khánh. Lúc bấy giờ, Thiếu úy Lê Văn Phượng, trưởng xe 390, vẫn chưa biết chiếc tăng T59 của mình sẽ đi vào lịch sử. Sống chết vẫn còn gang tấc. Khi cho xe dừng lại định nấu cơm bên một bìa rừng cao su, pháo thủ số hai của tăng 390, Đỗ Cao Trường, bị một toán thủy quân lục chiến núp trong vườn cao su bắn bị thương. Thiếu úy Phượng ra lệnh quay nòng pháo vào vườn cao su, bắn cho tới khi toán thủy quân lục chiến rút hết. Họ để Đỗ Cao Trường ở lại cho du kích rồi bốn anh em lên xe tiến về Sài Gòn. Tới ngã tư Hàng Xanh, những chiếc tăng phải chạy lòng vòng để tìm đường.
Trước đó không lâu, trong một cánh rừng cao su, Trung tướng Lê Trọng Tấn giao nhiệm vụ cho Quân đoàn IV: “đánh chiếm mục tiêu quan trọng nhất”. Tướng Nguyễn Hữu An, tư lệnh Quân đoàn II, hỏi: “Nếu Quân đoàn II vào trước có được đánh chiếm mục tiêu quan trọng nhất không?”. Tướng Lê Trọng Tấn gật đầu. Ngày 24-4, cũng tại một vườn cao su ở Long Thành, Tướng Nguyễn Hữu An đặt vấn đề với Lữ đoàn 203: “Cậu Tài (Trung tá Nguyễn Tất Tài, lữ trưởng 203) tốt nghiệp ở Liên Xô, cậu Tùng tốt nghiệp Học viện Thiết giáp Trung Quốc, các cậu biết rõ Liên Xô khi kết thúc Thế chiến thứ II đã dùng một sư đoàn tăng để tấn công vào sào huyệt cuối cùng. Tại sao mình có một lữ tăng, mình không vào Dinh Độc Lập?”. Ngay sau đó, trong khi “mũi thọc sâu” của Quân đoàn IV là bộ binh thì Tướng Nguyễn Hữu An đã đưa Lữ tăng lên tiên phong. Xe 390 đi trước nhưng chạy thẳng theo đường Hồng Thập Tự, thay vì đi hướng từ Sở Thú lên như 843, nên khi vào đến Dinh Độc lập lúc 10 giờ 45 phút, đã thấy xe 843 của trung úy Bùi Quang Thận tấp qua bên trái, dừng lại trước cổng phụ. Bùi Quang Thận phất tay ra hiệu cho xe của Lê Văn Phượng tiến lên.
Thiếu úy Lê Văn Phượng ngồi thụp xuống, đậy nắp tháp pháo và lệnh cho xe ủi vào cổng chính. Anh nghe tiếng “rầm” và tiếp đó là âm thanh bánh xích nghiền nát cánh cổng sắt. Biết cổng không có mìn, Lê Văn Phượng mở nắp tháp pháo, đứng nhô lên nửa người, từ xa anh thấy một nữ phóng viên “Tây” ngồi trên thảm cỏ. Nhưng khi xe anh cán lên bãi cỏ thì không thấy chị phóng viên đâu nữa. Hai mươi năm sau, Lê Quang Phượng sẽ gặp lại người phụ nữ ấy, còn lúc bấy giờ thì anh không có thời gian để tìm xem chị ở đâu.
Đến thềm Dinh, anh quay lại, thấy xe 843 vẫn đậu chỗ cũ, nhưng Trung úy Bùi Quang Thận thì đã nhảy xuống, chạy núp theo sau xe 390, tay cầm lá cờ khổ nhỏ, loại cờ được để sẵn rất nhiều ở trên mỗi xe để cứ chiếm được mục tiêu quan trọng nào lại cắm lên. Pháo thủ số 1 của xe 390 cũng cầm cờ định nhảy xuống, nhưng Lê Văn Phượng ra lệnh: “Anh Thận cầm cờ rồi, hãy nạp pháo, chuẩn bị!”. Rồi Lê Văn Phượng giữ lấy khẩu đại liên, yểm trợ. Nhưng từ lúc ấy, họ không còn phải bắn một phát đạn nào.
Khi chiếc tăng 390 đỗ lại, chính trị viên đại đội Vũ Đăng Toàn xách AK nhảy xuống, chờ đại đội trưởng Bùi Quang Thận cầm cờ tiến vào. Cả hai chạy lên thềm Dinh trong tư thế được mô tả là sẵn sàng chiến đấu. Bùi Quang Thận nhớ lại là anh đã hơi lo khi thấy bên trong có người mặc quân phục. Có thể vì quá căng thẳng và có thể vì là một người lính nông dân lần đầu đứng trước một tấm kính khổng lồ, Bùi Quang Thận lao vào cửa kính mạnh đến nỗi anh ngã bật ra phía sau trong khi tay vẫn không rời lá cờ. Từ trong Dinh, một người bận đồ dân sự chạy ra, mời vào26.
Bùi Quang Thận đứng trước một “Nội các” có lẽ cũng bối rối không kém. Không biết phải làm gì hơn, Bùi Quang Thận đề nghị Vũ Đăng Toàn ở lại “canh chừng”, chờ cấp chỉ huy đến còn mình thì làm nốt “vai trò lịch sử”, cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập. Chỉ huy lực lượng Phòng vệ Phủ Tổng thống, Đại tá Chiêm, được lệnh hướng dẫn Bùi Quang Thận đi thang máy lên nóc Dinh. Cùng đi theo hỗ trợ có sinh viên Nguyễn Hữu Thái (cựu Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn) và Tiến sỹ Huỳnh Văn Tòng27.
Khi ấy, thang bộ của Dinh chưa sử dụng được vì ngày 8-4-1975 đã bị phi công Nguyễn Thành Trung, một người được Cách Mạng cài vào quân đội Sài Gòn, ném bom làm hỏng. Đại tá Chiêm dẫn ba người đến trước thang máy, loại phương tiện mà đối với Bùi Quang Thận còn lạ hơn những tấm kính khổ rộng rất nhiều. BùiQuang Thận nhất quyết không vào; về sau anh kể lại: “Lúc đó tôi thấy thang máy giống như… cái hòm, vào đó nhỡ nó nhốt mình luôn, biết bao giờ mới ra được!”. Sau khi nghe Đại tá Chiêm giải thích, Bùi Quang Thận mới chịu dùng thang máy.
Phải mất khá lâu, ba người đi cùng mới giúp Bùi Quang Thận hạ lá cờ ba sọc vàng xuống bởi nó khá lớn và được buộc giây chắc chắn. Bùi Quang Thận kéo lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng nửa xanh nửa đỏ có sao vàng ở giữa lên, sau khi viết và ký tên vào: “11g30 ngày 30-4. Thận”28.


Sài Gòn trong vòng vây / Trước thềm Dinh, ông Hạnh thấy một xe Jeep và một xe GMC đầy lính vũ trang. Tướng Hạnh hỏi một sỹ quan đeo lon trung úy mới biết Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Lôi Hổ phòng thủ Tân Sơn Nhất đang gặp ông Minh ở tầng một Dinh Độc Lập.


Sài Gòn trong vòng vây

Theo Henry A. Kissinger, cuối tháng 4-1975, người Mỹ đã hoàn thành phần lớn việc di tản, kể cả hơn một trăm nghìn người Việt Nam có thể bị nguy hiểm do đã cộng tác với người Mỹ. Ngày 22-4-1975, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã “chấp thuận yêu cầu” của Tổng thống Gerald Ford, đồng ý gỡ bỏ những điều kiện hạn chế (extend parole) cho “khoảng 130,000 dân tị nạn đến từ Đông dương, trong đó có 50,000 người thuộc diện nguy cơ cao”. Đây là lần thứ hai Bộ Tư pháp Hoa Kỳ “chấp thuận một trường hợp ngoại lệ” (lần đầu, năm 1960, được dành cho “dân tị nạn Cuba”).
Từ ngày 21-4, các máy bay, C-141 vào ban ngày và C-130 vào ban đêm, liên tục cất cánh từ Sài Gòn, đưa “khoảng 50.000 người Việt nam” ra đi. Hơn 80.000 người Việt Nam khác “với sự trợ giúp của Mỹ chạy thoát bằng các phương tiện khác”.
Tuy nhiên, vào 4 giờ sáng ngày 29-4, khi quân Giải phóng tấn công bằng tên lửa vào sân bay Tân Sơn Nhất, 8.000 người Việt nam và 400 người Mỹ vẫn còn đang tập trung ở đó để chờ lên máy bay. Cuộc sơ tán đã phải tạm ngưng vì đám đông hoảng loạn. Trong ngày hôm ấy, Sài Gòn chứng kiến những đợt rút chạy cuối cùng của phái bộ Mỹ, trực thăng lên xuống ầm ĩ trên vùng trời Tân Sơn Nhất, binh sĩ dưới đất bắn lên, tức giận.
Ba giờ chiều ngày 29-04-1975, tình hình quân sự được báo cáo về Bộ tổng tham mưu Sài Gòn: Hướng Củ Chi, Sư đoàn 25 của Chuẩn tướng Lý Tòng Bá thất thủ vào chiều 28-04-1975 sau khi căn cứ Đồng Dù bị mất. Ở Biên Hòa, Trung tướng Toàn cho biết: trong ngày 28-04-1975, lúc 18 giờ 10 phút, Việt Cộng dùng xe tăng đánh chiếm chi khu Long Thành; 18 giờ 50 phút mất tỉnh lị Bà Rịa; 19 giờ 30 phút Biên Hoà bị bao vây ba mặt.
Tối 29-04-1975, Thiếu tướng Lê Minh Đảo nói với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh ông đang bị bọc hậu và xin rút về bên này sông Đồng Nai để cố thủ. Theo ông Hạnh thì giọng Tướng Lê Minh Đảo lạc đi. Cách đó mới hơn một tuần, Tướng Đảo tuyên bố “Cố thủ Xuân Lộc”, nhưng rồi Sư đoàn 18 đã phải rút chạy. Trong khi đó, ở Sư 22 đóng tại Tân An, Chuẩn tướng Phan Đình Niệm đã bỏ trốn. Hướng Thủ Dầu Một do Sư 5 trấn giữ đã bị chọc thủng đêm 29-04-1975, liên lạc bị cắt đứt.
Khi quân Giải phóng tràn đến Hố Nai, Sư đoàn 18 và Lữ đoàn 5 thiết giáp lập tuyến phòng thủ bên này sông Đồng Nai. Đêm 29-04-1975, nhiều đoàn xe của quân Giải phóng từ phía Hóc Môn đã tiến về Sài Gòn. Tư lệnh Biệt khu Thủ đô chobiết đã lập xong kế hoạch phản công. Theo Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, muốn kéo dài sự phòng thủ thì cần chỉ thị sắp xếp quân lại. Tuy nhiên, ông đã không bàn với Tướng Vĩnh Lộc việc này. Theo chỉ thị của Tổng thống Dương Văn Minh, “không được di chuyển quân để chờ ông thương thuyết”.
Trước khi về gặp tổng thống, ông Nguyễn Hữu Hạnh trình bày tình hình quân sự với Trung tướng Vĩnh Lộc và Trung tướng Nguyễn Hữu Có: “Phía Tân Sơn Nhất quân của Biệt khu Thủ đô đang chạm súng với Việt Cộng. Có thể họ sẽ giữ nổi nhưng phải chịu thiệt hại nhiều về người và vật chất. Tuy nhiên phía Biên Hòa và Thủ Dầu Một, Quân đoàn III không còn; chỉ huy các đơn vị của họ, Trung tướng Toàn đã bỏ chạy; Sư đoàn 18 và Lữ đoàn 5 thiết giáp kẹt ở tuyến sông Đồng Nai. Hướng Thủ Dầu Một bị bỏ ngỏ. Một đoàn chiến xa của Việt Cộng đang tiến về Sài Gòn. Mặt trận phía này chúng ta không có quân xung kích mà chỉ có lực lượng phòng thủ. Tôi e trong thời gian ngắn nữa chúng ta sẽ không thể gỡ nổi”. Theo ông Nguyễn Hữu
Hạnh: “Nghe xong, Tướng Vĩnh Lộc biến đổi sắc mặt, vội cầm lấy điện thoại báo cáo với ông Dương Văn Minh. Sau đó Vĩnh Lộc bắt tay tôi, đó là cái bắt tay cuối cùng”. Tám giờ sáng 30-04-1975, viên tướng dòng dõi hoàng tộc này đã cùng gia đình “di tản” bằng đường thủy.
Ông Nguyễn Hữu Hạnh nhớ lại: “Tôi và Tướng Nguyễn Hữu Có chạy đi tìm xe, tàixế đã bỏ đi mất. Tướng Có phải gọi điện thoại về nhà đưa chiếc xe riêng đón chúng tôi đến nhà ông Dương Văn Minh lúc 6 giờ sáng. Gặp ông Minh, Tướng Có trình bày lại toàn bộ tình hình quân sự như tôi đã nói. Ông Minh trầm ngâm. Tôi nói thêm:‘Tình hình rất nguy ngập, xin Đại tướng quyết định gấp’. Ông Minh quay lại hỏi:‘Bây giờ toa muốn gì?’ Tôi nói: ‘Thưa Đại tướng quyền chính trị là ở Đại tướng, riêng về quân sự thì Đại tướng phải giải quyết, tình hình quá nguy ngập không cho phép chúng ta chần chừ nữa’. Ông Minh suy nghĩ trầm ngâm một hồi rồi nói: ‘Thôi để tôi đi bàn với ông Huyền và ông Mẫu, các toa ngồi đây đợi’. Tôi đề nghị được đi theo, ông Minh đồng ý”.
Ông Minh và ông Hạnh tới Phủ Thủ tướng, số 7 đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn). Trên đường đi họ chứng kiến sự hốt hoảng của dân chúng, tại tòa đại sứ Mỹ có nhiều kẻ đang hôi của. Đại sứ Mỹ Martin rời khỏi Sài Gòn vào lúc 4 giờ 58 phút sáng 30-4-1975. Tuy nhiên, chuyến trực thăng cuối cùng rời khỏi tòa Đại sứ Mỹ, theo Ngoại trưởng Kissinger, là vào lúc 8 giờ 53 phút sáng 30-4, để sơ tán 129 lính thủy đánh bộ bảo vệ cuộc di tản ở tòa Đại sứ.
Ông Dương Văn Minh yêu cầu cho xe đón ông Huyền và ông Mẫu. Xe riêng của tổng thống đã đón ông Nguyễn Đình Đầu trước khi qua nhà ông Nguyễn Văn Huyền. Ông Đầu thuật lại, trên đường đi đến số 7 Thống Nhất, ông Huyền có nói với ông Đầu một câu bằng tiếng Pháp “Il faut se rendre”(phải đầu hàng).
Tình hình chiến sự mỗi phút càng nguy ngập. Lúc 8 giờ sáng 30-4, ba ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền và Vũ Văn Mẫu không còn lựa chọn nào hơn là đơn phương tuyên bố “bàn giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”. Ông Vũ Văn Mẫu soạn lời tuyên bố mất khoảng một tiếng đồng hồ; 9 giờ ông Minh đọc vào máy ghi âm, và lúc 9 giờ 30 phút lời tuyên bố này được phát đi trên sóng. Những người như ông Võ Văn Kiệt như trút được gánh nặng khi nghe được tuyên bố này phát trên đài Sài Gòn.
Vào khoảnh khắc Bản Tuyên bố bàn giao chính quyền sắp được đọc vào máy ghi âm, trước 9 giờ ngày 30-04-1975, Tướng Vannuxem đến Phủ Thủ tướng gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh nhờ ông Hạnh đưa vào gặp ông Minh, khi đó đang ngồi trong phòng khách với ông Nguyễn Văn Huyền và ông Vũ Văn Mẫu. Vannuxem là thiếu tướng người Pháp đã hồi hưu, thân Mỹ và thân cả Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Tướng Cao Văn Viên. Vannuxem đi ngay vào câu chuyện: “Tôi ở Paris mới đến, trước khi đi có gặp nhiều nhân vật, kể cả đại sứ Trung Cộng”. Rồi Vannuxem yêu cầu ông Minh kéo dài cuộc chiến ít nhất hai mươi bốn tiếng đồng hồ, tuyên bố bỏ
Mỹ đi với Bắc Kinh. Theo ông Vannuxem, làm như vậy Bắc Kinh sẽ gây áp lực với Hà Nội để ngưng chiến tại miền Nam. Ông Minh không đồng ý. Khi Vannuxem về
rồi, ông Dương Văn Minh nói: “Mình đã lỡ đi với Mỹ, bây giờ lại bán nước cho Trung Cộng sao”.
Theo kế hoạch thì chính phủ của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu sẽ “ra mắt” vào lúc 10 giờ sáng 30-4-1975, nhưng khi các nhân vật của chính phủ cũ và mới đến số 7
Thống Nhất thì họ nghe được Tuyên bố Bàn giao Chính quyền. Nhiều người trong số họ đã di chuyển sang Dinh Độc Lập không phải để tuyên thệ mà để chờ đợi.
Trong thời gian ấy, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh mang Tuyên bố Bàn giao Chính quyền của Tống thống Dương Văn Minh và Chỉ thị buông súng của Phụ tá Tổng
Tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh sang phát trên Đài Phát thanh Sài Gòn. Khi Tướng Hạnh trở lại Phủ Thủ tướng thì nơi đây đã hoàn toàn vắng lặng. Ông Hạnh chạy đến nhà ông Dương Văn Minh ở số 3 Trần Quý Cáp thì được biết ông Minh và gia đình đã vào Dinh Độc Lập. Ông Hạnh đến Dinh Độc Lập. Ngoài đường lúc ấy im phắc. Ông Nguyễn Hữu Hạnh vào Dinh bằng cổng chính, cổng Dinh mở, không lính gác.
Trước thềm Dinh, ông Hạnh thấy một xe Jeep và một xe GMC đầy lính vũ trang. Tướng Hạnh hỏi một sỹ quan đeo lon trung úy mới biết Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Lôi Hổ phòng thủ Tân Sơn Nhất đang gặp ông Minh ở tầng một Dinh Độc Lập. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh định về Bộ Tổng tham mưu, nhưng ông Minh giữ lại. Vừa lúc, điện thoại tại phòng làm việc của Chánh văn phòng Tổng thống reng. Một thiếu tá xin gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Đó là Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Lôi Hổ phụ trách phòng thủ Bộ Tổng tham mưu.
Viên thiếu tá hỏi: “Chuẩn tướng bảo chúng tôi buông súng là làm sao? Tôi không đầu hàng đâu, tôi đã bắn cháy ba xe tăng”. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh giải thích và khuyên: “Thiếu tá không nên để cho máu đổ ở giờ thứ 25”. Viên thiếu tá yêu cầunói chuyện với Tổng thống, Tướng Hạnh mời ông Minh đến, nhưng câu chuyện chưa xong thì chiếc tăng 843 xuất hiện. Ông Minh nói: “Quân Giải phóng đã vào tới Dinh rồi, thôi cúp”.


Tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh sang phát trên Đài Phát thanh Sài Gòn. Khi Tướng Hạnh trở lại Phủ Thủ tướng thì nơi đây đã hoàn toàn vắng lặng. Ông Hạnh chạy đến nhà ông Dương Văn Minh ở số 3 Trần Quý Cáp thì được biết ông Minh và gia đình đã vào Dinh Độc Lập. Ông Hạnh đến Dinh Độc Lập. Ngoài đường lúc ấy im phắc. Ông Nguyễn Hữu Hạnh vào Dinh bằng cổng chính, cổng Dinh mở, không lính gác.
Trước thềm Dinh, ông Hạnh thấy một xe Jeep và một xe GMC đầy lính vũ trang. Tướng Hạnh hỏi một sỹ quan đeo lon trung úy mới biết Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Lôi Hổ phòng thủ Tân Sơn Nhất (Thiếu Tá Lê Minh CHT Đoàn 2/SLL) đang gặp ông Minh ở tầng một Dinh Độc Lập. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh định về Bộ Tổng tham mưu, nhưng ông Minh giữ lại. Vừa lúc, điện thoại tại phòng làm việc của Chánh văn phòng Tổng thống reng. Một thiếu tá xin gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Đó là Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Lôi Hổ phụ trách phòng thủ Bộ Tổng tham mưu (Thiếu Tá Phạm Châu Tài 81 BCD).
Viên thiếu tá hỏi: “Chuẩn tướng bảo chúng tôi buông súng là làm sao? Tôi không đầu hàng đâu, tôi đã bắn cháy ba xe tăng”. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh giải thích và khuyên: “Thiếu tá không nên để cho máu đổ ở giờ thứ 25”. Viên thiếu tá yêu cầu nói chuyện với Tổng thống, Tướng Hạnh mời ông Minh đến, nhưng câu chuyện chưa xong thì chiếc tăng 843 xuất hiện. Ông Minh nói: “Quân Giải phóng đã vào tới Dinh rồi, thôi cúp”.

Xe tăng 390

Lúc đó là 10 giờ 45 phút ngày 30-4-1975. Trước đó ít phút, khi Tiểu đoàn trưởng Lôi Hổ phòng thủ Tân Sơn Nhất bỏ đi (Thiếu Tá Lê Minh) , một dân biểu thuộc lực lượng thứ ba, Trung tá Nguyễn Văn Binh, đã cẩn thận đóng cổng Dinh Độc Lập.