Wednesday, October 21, 2020

TOÁN BIỆT KÍCH CALIFORNIA DÀNH RIÊNG CHO WILLIAM WENTWORTH STUBBS

TOÁN BIỆT KÍCH CALIFORNIA

DÀNH RIÊNG CHO WILLIAM WENTWORTH STUBBS

 Tên Họ:                       William Wentworth Stubbs

Cấp bậc/Binh chủng:  Trung Sĩ / Liên đoàn 5 LLĐB/HK, MACV-SOG, sở chỉ huy Trung (CCC)

Ngày/Nơi sinh:           Ngày 06 tháng Tám 1949, thành phố Oak Harbor, tiểu bang Washington

Ngày tổn thất:             20 tháng Mười 1969

Nơi (Quốc gia) tổn thất:  Lào (Laos)

Tọa độ nơi tổn thất:    180524N 1050000E (YB705987)

Tình trạng (1973):      Mất tích

Phân loại:                    2

Phi cơ/Xe cộ/Trên Bộ: Trên Bộ

Số hồ sơ:                     1503

Nguồn: Tài liệu thâu thập từ: Các nguồn tin của chính quyền Hoa Kỳ, giấy thông báo cho các gia đình quân nhân (tử sĩ), các nguồn tin tức đã được phổ biến (đăng tải), phỏng vấn (đồng đội, thân quyến). Bổ túc trên hệ thống POW (Tù Binh Chiến Tranh) năm 2002 với những tin tức của Robert Mohs. 2020

Ghi chú: Trung Sĩ William W. Stubbs là một khinh binh, phục vụ trong toán Viễn Thám (LRRP) Biệt Kích MACV-SOG (Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát trực thuộc bộ tư lệnh Quân Viện Hoa Kỳ). Đơn vị MACV-SOG là một đơn vị tối mật hoạt động trong vùng Đông Nam Á châu. Liên đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ cung cấp quân nhân Mũ Xanh (tình nguyện) cho đơn vị SOG (họ bí mật không trực thuộc hệ thống chỉ huy của LLĐB/HK mà từ cơ quan MACV). Họ được xếp vào phần “mở rộng Hành Quân Đặc Biệt” (SOA), một danh xưng che dấu những hoạt động bí mật của đơn vị MACV-SOG. Các toán biệt kích SOG “xuất ngoại”, xâm nhập sâu vào hậu phương địch, quan sát, theo dõi, phá hoại trong hành quân (chiến dịch) Shining Brass, sau này đổi thành Prairie Fire (Xâm nhập vào đất Lào, Sau này qua Miên lấy tên là Salem House).

Ngày 20 tháng Mười năm 1969, toán biệt kích California trong đó có Trung Sĩ Stubbs, xâm nhập sâu vào một khu vực trên đất Lào, hướng đông thị trấn Nakhon Phanom (căn cứ không quân rất lớn Không Lực 7 ‘Seventh Air Force’ của Hoa Kỳ.   vđh) trên đất Thái Lan. Trong lúc di chuyển, toán biệt kích tạm dừng chân nghỉ mệt. Khi toán biệt kích bắt đầu di chuyển, dưới sự hướng dẫn của Trung Sĩ Stubbs (đi đầu), quân Bắc Việt bất ngờ tấn công. Loạt đạn bắn rất gần trúng đầu anh ta, lính Bắc Việt tiếp tục bắn, ném tiếp theo ba qủa lựu đạn vào vị trí toán biệt kích, làm họ không tiến lên lấy xác Trung Sĩ Stubbs, phải di chuyển gấp đi nơi khác (bỏ chạy).

Ngày hôm sau, một toán biệt kích “Cấp cứu, thâu hồi” (Search and Recover SAR cũng là một toán biệt kích SOG khác) được đưa vào khu vực toán biệt kích bị tấn công tìm xác Trung Sĩ Stubbs. Trước sự xuất hiện đông đảo địch quân, toán biệt kích SAR phải được rút về và Trung Sĩ William Wentworth Stubbs được báo cáo mất tích, không lấy được xác (MIA).

Nhiệm vụ qúa khó khăn, nhiều toán biệt kích SOG như toán California, xâm nhập chưa được bao lâu đã phải bỏ chạy thoát thân. Tuy nhiên vẫn có nhiều toán di chuyển xuyên qua tuyến phòng thủ của địch, đem về nhiều tin tức chiến lược có giá trị cao cho quân đội Hoa Kỳ (và Đồng Minh), điều chỉnh phi cơ bắn phá nhiều mục tiêu binh trạm, kho dự trữ (vũ khí, tiếp liệu) của quân đội Bắc Việt trên đất Lào. Sau trận Mậu Thân, năm 1969 cũng là năm “bận rộn” với nhiều tổn thất cho đơn vị SOG, Nha Kỹ Thuật (NKT-STD) Lôi Hổ QL/VNCH. (Các toán Biệt Kích SOG do quân Mũ Xanh Hoa Kỳ chỉ huy có con số tổn thất lên đến 50% ‘một nửa’… Đối với người Hoa Kỳ, anh tình nguyện, anh có nhiệm vụ phải chu toàn… phải “nhẩy vào”.   vđh). Năm 1969, đơn vị MACV-SOG “phóng ra” 452 chuyến hành quân, xâm nhập vào đất Lào và Cambodia. Đó là chiến dịch xâm nhập, thâu thập tin tức tình báo chiến lược, phá hoại rộng lớn nhất trên một vùng đất xa xôi trong quân sử Hoa Kỳ. Đơn vị MACV-SOG đã chứng minh kỹ thuật tác chiến hiệu qủa nhất, gây kinh hoàng cho địch quân (được ân thưởng huy chương Danh Dự, Medal of Honor đầu tiên, và nhiều nhất trong quân đội Hoa Kỳ, suốt cuộc chiến Việt Nam).

Những nhiệm vụ dành cho các toán biệt kích SOG, như toán California và Trung Sĩ Stubbs rất quan trọng trên khiá cạnh chiến thuật, chiến lựơc. Những quân nhân tình nguyện trong đơn vị này đều biết rằng, sinh mạng của họ như treo trên một sợi chỉ và cơ hội đem xác họ về rất hiếm hoi, gần như con số không. Họ chỉ mong, sau cuộc chiến sẽ được tự do (thân xác được đưa về Hoa Kỳ an nghỉ)… Trong tổng số 2500 tù binh, quân nhân mất tích MIA, 591 người, phần đông là các quân nhân Mũ Xanh LLĐB Hoa Kỳ, hai chữ  “tự do” sẽ không bao giờ đến với họ.

Trung Sĩ Stubbs là một trong số gần 600 quân nhân Hoa Kỳ mất tích trên đất Lào. Mặc dầu quân cộng sản Pathet Lào cho biết họ đã từng giam giữ “hàng chục” người Hoa Kỳ, nhưng chính quyền Hoa Kỳ đã từ chối không công nhận “chính quyền” của họ, không thương thuyết với họ, do đó những tù binh Hoa Kỳ bị quân Pathet Lao giam giữ không bao giờ được trả tự do.

Sau khi trận chiến tranh Việt Nam kết thúc, có đến 10000 bản báo cáo liên quan đến vấn đề người Hoa Kỳ mất tích trong vùng Đông Nam Á (MIA), làm cho dư luận quần chúng, viên chức có chức vụ, thẩm quyền tin rằng, vẫn còn hàng trăm người Hoa Kỳ bị giam giữ. Nếu Trung Sĩ Stubbs vẫn còn sống, rất có thể ông ta là một trong số những người đó.


 TRUY ĐIỆU MỘT ANH HÙNG ĐÃ RA ĐI (MIA)

William Wentworth “Bill” Stubbs

Cấp Bậc:         Trung Sĩ

Binh Chủng:   Lực Lượng Đặc Biệt

Ngày/Nơi sinh: 06 Tháng Tám 1949 tại Harbor, tiểu bang Washington

Nơi cư trú:      Newport, tiểu bang Washington

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Trung Sĩ Stubbs phục vụ trong Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát (SOG) trên sở chỉ huy Trung (CCC-Kontum). Liên đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ cung cấp quân Mũ Xanh cho đơn vị SOG, thực hiên Chiến Tranh Ngoại Lệ. Sở chỉ huy Trung trên Kontum (B-15) còn có tên là Căn Cứ Hành Quân Tiền Phương 2 (FOB-2, căn cứ “phóng” đi những toán biệt kích SOG). Căn cứ này nằm hai bên quốc lộ 14 nơi phiá nam Kontum, nối hai thành phố Pleiku-Kontum. Trung Tâm Hành Quân (TOC), đại đội Thám Kích (các toán biệt kích) và đơn vị quân xa nằm phiá đông, đại đội Xung Kích Hatchet Force (tiếp ứng), nhà ăn, câu lạc bộ nằm phiá tây).

TOÁN BIỆT KÍCH CALIFORNIA

Bill (Stubbs) nhận lệnh làm toán phó “Một-Một” (One-One) cho toán biệt kích California. Hai quân nhân LLĐB Hoa Kỳ khác trong chuyến công tác định mệnh đó (20 tháng Mười 1969) là Trung Sĩ Nhất Richard “Dick” Gross, trưởng toán biệt kích “Một-Không” (One-Zero), nhân viên truyền tin “Một-Hai” (One-Two) là Trung Sĩ Robert “Bob” Mohs. Ngoài ba quân nhân LLĐB Hoa Kỳ, toán biệt kích California có 10 biệt kích quân người Thượng (Montanard) gọi tắt là “Da” (Yard), đa số thuộc sắc dân Sedang sống trên vùng cao nguyên miền Nam Việt Nam. Toán quân biệt kích Thượng có người thông ngôn (thường chỉ huy mấy quân nhân người Thượng).

NHIỆM VỤ

Vào giữa tháng Mười năm 1969, toán biệt kích California nhận lệnh chuẩn bị chuyến xâm nhập lấy tin tức tình báo chiến lược trong khu vực phiá đông miền trung nước Lào. Nhiệm vụ chính thức cho họ, tìm kiếm dấu vết, báo cáo các cuộc chuyển quân của địch (quân đội Bắc Việt) trong khu vực mục tiêu được đặt tên là “S-7”. Khu vực hoạt động (hành quân) của mục tiêu S-7 có nhiều đường giao thông tiếp vận lớn trong hệ thống đường mòn HCM, một nhánh sẽ đi đến căn cứ Khâm Đức (trại LLĐB Khâm Đức được SOG xử dụng làm căn cứ phóng các toán biệt kích vào khu vực phiá nam nước Lào… Trại này phải di tản sau đó vị áp lực của quân đội Bắc Việt.)

Sau khi chuẩn bị xong xuôi, vũ khí, đồ nghề đem theo, bay thám thính bãi đáp (xâm nhập, triệt xuất), toán biệt kích báo cáo sẵn sàng lên đường, thuyết trình cho vị chỉ huy trưởng căn cứ, Trung Tá Frederick T. “Fred” Abt, cùng sĩ quan ban 2, ban 3 trong sở chỉ huy Trung (CCC). Toán biệt kích California gồm 3 quân nhân Mũ Xanh Hoa Kỳ, cùng với sáu (6) biệt kích quân Thượng chọn lọc, được phi cơ vận tải C-7 Caribou (thường được xử dụng đáp trên các phi đạo ngắn trong các trại LLĐB) đưa lên trại LLĐB Dak Pek (sau này đổi thành TĐ88/LĐ22/BĐQ) hôm 18 tháng Mười năm 1969.

Toán biệt kích California ngủ đêm trong căn cứ Dak Pek. Sáng hôm sau, thời tiết quang đãng, toán California lên trực thăng cũ kỹ H-34 thuộc phi đoàn trực thăng lừng danh 219 danh hiệu “King Bees”, Không Quân VNCH (biệt phái cho SOG), đưa vào bãi đáp trong khu vực mục tiêu S-7. Đơn vị SOG được yểm trợ rất mạnh mẽ, mấy chiếc H-34 thả/bốc toán biệt kích được hai trực thăng võ trang AH-1 Cobra bay trước thám thính, dọn dẹp bãi đáp nếu cần (có sự hiện diện của địch quân). Tất cả làm việc chặt chẽ theo sự phối hợp, chỉ huy của phi cơ điều không tiền tuyến (FAC), danh hiệu “Covey”. Trên chiếc Covey này có một quân nhân biệt kích SOG nhiều kinh nghiệm, danh hiệu “Covey Rider” để làm việc với toán biệt kích. Covey là máy bay quan sát L19/O-1 “Bird-Dog”, O-2 “Sky Master”, OV-10 “Bronco”

CHẠM ĐỊCH

Qua ngày hôm sau (20 tháng Mười), khoảng 11:30, toán biệt kích tạm dừng chân nghỉ mệt trong một khu vực cây cối rậm rạp, dưới chân sườn núi dốc đứng, gần một nhánh đường mòn HCM để liên lạc với phi cơ FAC bay bao vùng.

Điều không may cho toán biệt kích California, lúc đó phi cơ điều không tiền tuyến (FAC) đang bận thả/bốc một toán biệt kích khác xa về hướng nam. Toán biệt kích không liên lạc được vì chiếc phi cơ đã bay qúa xa ra khỏi làn sóng của máy truyền tin PRC-25. Trong lúc toán biệt kích bố trí để nghỉ ngơi, Trung Sĩ Stubbs ở vị trí đầu toán biệt kích, Trung Sĩ Bob Mohs ở giữa, xử dụng máy truyền tin vẫn cố gắng bắt liên lạc với phi cơ FAC, Trung Sĩ Nhất Dick Gross trưởng toán ở dưới cùng với máy biệt kích quân Thượng. Một toán biệt kích SOG khi xâm nhập thường liên lạc với phi cơ FAC 3 lần để báo cáo, nhận lệnh (từ người biệt kích SOG đi bay trên chiếc Covey). Lần liên lạc đầu tiên lúc mặt trời lên để cho biết toán biệt kích an toàn qua đêm, và sẵn sàng một ngày hoạt động (thám sát khu vực, đã dự trù trước khi lên đường).

Lần liên lạc thứ hai, thường vào buổi trưa báo cáo điểm đứng, vị trí hiện tại, và những điều quan sát được. Lần cuối cùng, trước khi trời tối, toán biệt kích báo cáo điểm đóng quân đêm và những điều khám phá được trong ngày.

PHỤC KÍCH

Trong khi toán biệt kích California đang nghỉ ngơi, một đơn vị Bắc Việt cấp trung đội di chuyển đến vị trí phục kích toán biệt kích SOG. Trong những loạt súng đầu tiên, Trung Sĩ Bill Stubbs trúng mấy viên đạn AK-47 vào đầu và ngực, gục chết ngay trên ba lô của anh ta (KIA). Lính Bắc Việt tiếp tục bắn xối xả vào vị trí toán biệt kích làm năm trong số sáu biệt kích quân người Thượng bị thương. Trưởng toán Dick Gross lui về sau tránh đạn bị trật chân (sái chân). Địch quân ném thêm lựu đạn ngăn cản quân biệt kích lên lấy xác Trung Sĩ Stubbs, có qủa nổ tung gần chỗ người lính Mũ Xanh Hoa Kỳ gục chết, làm thân xác của anh ta nát bấy.

Mặc dầu bị thiệt hại ngay từ loạt đạn đầu, quân biệt kích vẫn bắn trả lại làm địch quân phải nằm yên tại chỗ chưa dám xung phong lên… đủ cho toán biệt kích California củng cố lại tình thế, tìm cách rút êm ra khỏi khu vực bị tấn công bất ngờ. Họ phải để xác Trung Sĩ Stubbs lại cùng với ba lộ của họ (nhẹ di chuyển cho dễ dàng). Vị trí toán biệt kích California bị tấn công là một khu rừng rậm rạp, cách trại LLĐB Khâm Đức khoảng 19 dặm về hướng nam, tây nam, cách biên giới Việt Lào khoảng 4 dặm về hướng tây nam và về hướng đông bắc Nakhon Phanom trong tỉnh Attopeu của Lào. Trên bản đồ, vị trí có tọa độ 180525N-1050000E (trục tọa độ YB 705987. Số tổn thất của địch (quân đội Bắc Việt) không rõ.

TRỐN TRÁNH

Toán biệt kích SOG tìm đường thoát, với trưởng toán Dick Gross lên dẫn đường (point man, hướng đạo) và Bob Mohs (nhân viên truyền tin) lúc đó phải thủ khẩu đại liên M-60 đóng vai trò “hậu vệ” đi sau, không cho địch đuổi theo truy kích, quân biệt kích Thượng bị thương gần hết, lo dìu nhau bước đi. Trong một tiếng đồng hồ, toán biệt kích di chuyển đến một nhánh sông nhỏ, rồi cố gắng lên một ngọn đồi nhỏ, làm vị trí phòng thủ cho trực thăng đến đón. Sau khi lập tuyến phòng thủ xong, toán biệt kích xử dụng máy truyền tin khẩn cấp URC-90 phát đi tín hiệu cấp cứu, và được một phản lực cơ chiến đấu (có thể Phantom F-4) đang bay trong vùng bắt được tín hiệu, chuyển tiếp về trung tâm cấp cứu.

Lập tức, hai khu trục A-1 Skyraider được lệnh bay đến mục tiêu nơi toán biệt kích bị tấn công, sẵn sàng trấn áp hỏa lực của địch cho một trực thăng Huey UH-1 bay vào cứu toán biệt kích. Toán biệt kích California được trực thăng Huey bốc (scoop) đưa về căn cứ Hành Quân Tiền Phương Dak To (gần hơn Kontum), vì lúc đó trực thăng cũng gần hết nhiên liệu, ráng bay tìm toán biệt kích (tình chiến hữu sống chết). Trên phi đạo Dak To, toán biệt kích tả tơi được một trực thăng khác đưa về Kontum (B-15). Các binh sĩ Thượng bị thương được đưa ngay đi bệnh viện, cùng với gia đình của họ.

PHẦN KẾT

Ngày hôm sau một toán biệt kích Bright-Light (SAR - Cấp cứu và Thâu hồi) ứng chến trong căn cứ Hành Quân Tiền Phương (FOB) Dak To được đưa vào tim xác Trung Sĩ Stubbs, được trưởng toán biệt kích California Dick Gross hướng dẫn đến mục tiêu.

Toán biệt kích Bright-Light không tìm thấy gì, kể cả ba lô, quân dụng toán biệt kích California để lại (để di chuyển nhanh chóng, dễ dàng). Quân Bắc Việt đã “thâu dọn” sạch sẽ bãi chiến trường, đem đi tất cả chiến lợi phẩm (kể cả xác Trung Sĩ Stubbs). Quân biệt kích tim kiếm xung quanh, nhưng không có dấu hiệu hố chôn xác người. Đến chiều toán biệt kích SAR cùng với Dick Gross được đưa trở về Dak To.

Trong tháng Giêng năm 1970, trường hợp của Trung Sĩ Stubbs được đem ra xem xét, ông ta được ân thưởng Ngôi Sao Bạc, cùng với Chiến Thương Bội Tinh và Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc của QL/VNCH.

Theo tài liệu download từ Internet:

http://sogchronicles.com/MACVSOG_-_MIA.php

https://www.pownetwork.org/bios/s/s154.htm

download 10/21/2020 at 8:07am

Fort Hay State University Oct. 21, 2020

Department of Computer Science

vđh

No comments:

Post a Comment