Thursday, August 4, 2022

Những Cuộc Hành Quân Bí Mật Đầu Tiên Trên Đường Mòn HCM và Đại Tá Trần Khắc Kính

Bắt đầu từ năm 1961, 1962, cơ quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (CIA) huấn luyện và tài trợ liên đoàn Quan Sát số 1 VNCH để chống lại các hoạt động của Cộng sản trên đường mòn HCM, (Ken Conboy, James Morrison)

Trong suốt cuộc chiến tranh Đông Dương Thứ Nhất (1946 – 1954), quân cộng sản nơi miền bắc Việt Nam cố gắng chuyển quân dụng, vũ khí của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc (Trung Cộng) vào miền nam, tiếp tế cho đồng bọn trên chiến trường miền nam Việt Nam. Kế hoạch tiếp tế cho chiến trường phương nam rất khó khăn vì lý do “cái eo” của Việt Nam (miền trung) rất hẹp và có nhiều đồn bót quân đội thuộc đia Pháp. Theo một phương thức khác, đường dây tiếp vận của Cộng sản là một hệ thống đường mòn chạy dọc theo đường biên giới phiá đông nước láng giềng Lào, qua cán chảo (panhandle) trước khi quay trở vào phần đất Việt Nam.
Sau một thời gian ngưng hoạt động ngắn (giữa thập niên 1950 – Hiêp định Genève), đến mùa Xuân 1959, quân đội Bắc Việt bắt đầu xử dụng lại những con đường mòn này để chuyển người, vũ khí, quân dụng vào miền nam Việt Nam. Nỗ lực này theo sau việc quân đội Bắc Việt tiến vào đất Lào ngày 14 tháng Mười Hai năm 1958, chiếm đóng khu vực hướng tây vĩ tuyến 17 vùng phi quân sự. Hệ thống đường mòn tiếp vận cho chiến trường miền nam bắt đầu có tên là đường mòn HCM.
Không bao lâu, cả hai chính quyền Hoàng Gia Lào và VNCH đều biết chuyện quân đội Bắc Việt tái xử dụng hệ thống đường mòn. Rõ ràng có vấn đề cho cả hai quốc gia, tuy nhiên người Lào ít bận tâm, do đó quân cộng sản cùng với dân công “tỉnh bơ” vận chủng vũ khí cùng đồ tiếp vận trên đất láng giềng.
Chỉ có chính quyền miền nam ở Saigon lo ngại. Trong năm 1959, lo ngại muốn biết thêm tin tức về mức độ xâm nhập của địch trên đường mòn HCM, giới chức VNCH bắt đầu thương thuyết với chính quyền Hoàng Gia Lào cho phép QLVNCH thám sát khu vực phiá tây Lao Bảo theo đường số 9 vào đất Lào. Để giữ bí mật, quân biệt kích VNCH sẽ mặc quân phục Lào. Đến cuối năm (1959), quân VNCH (biệt kích) thường xuất hiện trong một tiền đồn (căn cứ tạm, bán thời gian) đặt trong làng Ban Houei Sane trên đất Lào.
Việc quân đội Bắc Việt xử dụng hệ thống đường mòn trên đất Lào bị ảnh hưởng bởi một biến cố xẩy ra. Trong tháng Tám năm 1960, một Đại Úy Nhẩy Dù trong quân đội Lào tên là Kong Le nắm quyền kiểm soát thủ đô Vientiane (Vạn Tượng), tuyên bố quốc gia “trung lập”. Vấn đề khủng hoảng chính trị xẩy ra, các sĩ quan trong nhóm “khuynh tả” tụ họp lại ở phiá nam Lào, bàn chuyện “chống đảo chánh”. Trong khi đó nhóm cộng sản Lào, gọi là quân Pathet Lào ủng hộ Kong Le. Đến tháng Mười Hai, tất cả các nhóm kéo về thủ đô Vientiane đánh lẫn nhau, gây thiệt hại nhiều cho thành phố.
Trận nội chiến xẩy ra khắp nơi trên đất Lào, trong tháng Giêng năm 1961, tiểu đoàn 12 quân đội Hoàng Gia thường đóng quân phòng thủ phiá nam nơi làng Tchepone được lệnh di chuyển về hướng tây theo giòng sông Mekong (Cửu Long) đến thị trấn Thakhek. Thay vào Tchepone là tiểu đoàn 33 mới thành lập gồm quân tình nguyện (BV33).
Cảm thấy cơ hội “lấn đất” đã đến, đặc biệt dọc theo hành lang đường mòn HCM, quân đội Bắc Việt với sự yểm trợ của Pathet Lào (cộng sản Lào) tấn công vào Tchepone và Muong Phine gần đó ngày 29 tháng Tư năm 1961. Cả hai thị trấn đều rơi vào tay quân Bắc Việt trong vòng một ngày, mặc dầu được tăng cường một đơn vị Pháo Binh Thái Lan đến. Tiểu đoàn 33 bỏ chạy về Ban Houei Sane.
Kế hoạch của quân Bắc Việt trên đất Lào trở nên rõ ràng, sáu tháng trước đó họ đã thanh toán một tiền đồn (quân đội Hoàng Gia) ở Sam Luang nơi phiá nam. Tuy nhiên quân đội Hoàng Gia Lào vẫn hiện diện trong vùng, ngăn cản sự phát triển đường mòn HCM qua hai tỉnh Saravane và Attopeu trên đường vào vùng cao nguyên nam Việt Nam. Một đại đội thuộc tiểu đoàn BV43 đóng trong làng từ tháng Tám năm 1960, bị tràn ngập hôm 14 tháng Mười. Một tuần sau, ngày 21 tháng Mười, hai cánh quân lính Bắc Việt tiến vào tỉnh Kontum VNCH, chiếm đóng trong năm ngôi làng Thượng nơi hướng bắc Dak Pek (sau này là trại LLĐB Dak Pek, cải tuyển thành TĐ88/BĐQ/BP, căn cứ Đức Phong). Đến ngày 8 tháng Mười Một, các đơn vị Bắc Việt rút trở qua đất Lào. Đó là lần đầu tiên, quân đội Bắc Việt xâm lăng miền nam Việt Nam, kể từ sau trận chiến tranh Đông Dương Thứ Nhất.
Những hoạt động của quân đội Bắc Việt làm giới chức cao cấp trong chính quyền miền nam Việt Nam lo ngại. Sau các trận tấn công ngày 29 tháng Tư năm 1961, vài viên chức cao cấp áp lực Tổng Thống Ngô Đình Diệm lấy lại Tchepone. Lo ngại chính quyền Bắc Việt phản ứng, tuyên truyền (Tchepone trên đất Lào), ông Diệm bỏ qua, ra lệnh giới hạn việc băng qua biên giới, giúp đỡ tiểu đoàn 33 Hoàng Gia Lào (đơn vị bảo vệ Tchepone).
Đơn vị đi tiếp viện VNCH bao gồm quân thuộc sư đoàn 1 Bộ Binh, được quân biệt kích liên đoàn 1 Quan Sát tăng cường. Đơn vị biệt kích là đơn vị chính yếu trực thuộc Sở Liên Lạc Phủ Tổng Thống, một danh xưng mơ hồ cho chiến tranh ngoại lệ, tình báo. Khởi thủy là Phòng Sáu (6) thời Pháp thuộc, Sở Liên Lạc Phủ Tổng Thống chuyên lo về phản gián. Sau khi bàn giao cho VNCH năm 1954, đã thay đổi danh xưng hai lần trước khi Trung Tá Lê Quang Tung được trao cho nhiệm vụ điều hành.
Ông Tung là một sĩ quan được Tổng Thống Diệm tín nhiệm. Cũng như ông Diệm là người miền trung theo đạo Thiên Chúa. Cá tính thầm lặng đưa ông Tung thăng cấp bậc từ Trung Úy lên Trung Tá trong vòng hai năm. Trong khi điều hành ngành phản gián cho văn phòng Liên Lạc Phủ Tổng Thống, ông ta “xin ra” vào đầu năm 1957 khi người Hoa Kỳ giúp đỡ VNCH thành lập một liên đoàn Lực Lượng Đặc Biệt.
Bắt đầu với 70 sĩ quan, hạ sĩ quan được phòng LL/PTT tuyển chọn, được huấn luyện nhẩy dù và thông tin liên lạc. Trong mùa hè năm 1957, 54 quân nhân trong đơn vị này được đưa đi Nha Trang thụ huấn khóa biệt kích do toán huấn luyện Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ đảm trách. Chu kỳ huấn luyện đầu tiên này có tên là “Cycle Cramer”, tên Đại Úy Cramer (tử nạn trong tháng Mười khi dậy thực tập về chất nổ). Kết qủa có 38 khóa sinh đầu tiên tốt nghiệp làm thành phần nồng cốt cho liên đoàn 1 Quan Sát, tiền thân của Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam.
Là một đơn vị trong quân đội VNCH, Liên đoàn 1 Quan Sát được bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ lẫn cơ quan Trung Ương Tình Báo (CIA) yểm trợ. Đơn vị phát triển nhanh chóng, trong tháng Ba năm 1958, toán Cycle Cramer huấn luyện cho nhóm B, rồi C, D tiếp theo, mỗi nhóm gồm 50 sĩ quan, hạ sĩ quan tuyển chọn trong quân đội VNCH. Các quân nhân sau khi thụ huấn được chia ra các tiểu đội 15 người.
Mặc dầu được huấn luyện tốt, trang bị đầy đủ, liên đoàn 1 Quan Sát không được thành công như mong muốn trong ba năm đầu. Đại Tá Tung chỉ tập trung nỗ lực vào các hoạt động bí mật nơi miền bắc Việt Nam, một nhiệm vụ do cơ quan CIA yểm trợ mà Sở LL/PTT bắt đầu từ đầu năm 1958. Cấp chỉ huy liên đoàn 1 Quan Sát là Đại Úy Đàm Văn Qúy, một người thuộc sắc dân thiểu số Thổ nơi miền bắc Việt Nam, lúc nào cũng đặt đơn vị trong tình trạng sẵn sàng thi hành nhiệm vụ. Tuy nhiên, ngoài chuyến hành quân tảo thanh VC trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, ít khi đơn vị hành quân xa, ra khỏi thành phố Nha Trang.
Cho đến tháng Mười Một năm 1960, liên đoàn 1 Quan Sát mới được “rửa tội” bằng hỏa lực. Lữ đoàn Nhẩy Dù tổ chức đảo chánh, chiếm giữ vài khu vực trong Saigon, chống lại vị tổng thống đang dần dần mất uy tín Ngô Đình Diệm. Là người trung thành, khi được tổng thống gọi, Đại Tá Tung đưa liên đoàn từ Nha Trang về Saigon cấp tốc, tấn công đơn vị Nhẩy Dù trong khu vực trường đua Phú Thọ.
Sau cuộc đảo chánh thất bại, Đại Úy Đàm Văn Qúy được thăng cấp và giao cho chỉ huy tiểu đoàn 3 Nhẩy Dù. Thay ông ta là Đại Úy Bùi Thế Minh, một người theo đạo Phật, tuy nhiên đã có thời gian theo nhóm người Thiên Chúa chống cộng trước đó nên được sự tin tưởng của Tổng Thống Diệm và cấp chỉ huy trong Sở LL/PTT.
Dưới quyền Đại Úy Minh, liên đoàn được trao nhiệm vụ trợ giúp Tiểu đoàn 33 (BV33) trên đất Lào trong mùa Xuân năm 1961. Ngày 5 tháng Năm, với quân số khoảng một nửa tiểu đoàn bao gồm quân biệt kích và Sư đoàn 1 Bộ Binh, băng qua biên giới Lào Việt. Quân Việt Nam giúp phần còn lại tiểu đoàn 33 Hoàng Gia Lào lập phòng tuyến mới ở Ban Houei Sane. Quân biệt kích di chuyển xa về hướng Tây 6 cây số nằm án ngữ cho tuyến phòng thủ. Một đơn vị Pháo Binh VNCH cũng di chuyển đến Lao Bảo để yểm trợ quân bạn.
Trong khi mọi chuyện đang xẩy ra, chính quyền Tổng Thống Kennedy tức giận vì quân đội Bắc Việt thao túng ở bên Lào, đặc biệt chuyện “lấn đất” hành lang phiá đông nam quốc gia này. Ngày 6 tháng Năm 1961, chính quyền Hoa Kỳ cho phép một chương trình bí mật chống lại Bắc Việt trong vùng Đông Nam Á. Là một phần trong chương trình, liên đoàn 1 Quan Sát được trao thêm nhiệm vụ chống lại VC trong miền nam Việt Nam. Một nhiệm vụ quan trọng khác, liên đoàn cho biệt kích giả thường dân xâm nhập vào phiá nam Lào, tìm kiếm tấn công đường giao liên của quân đội Bắc Việt. Những toán biệt kích này sẽ phối hợp với các đơn vị tấn công VNCH quân số khoảng 100, 150 người.

Để áp dụng chương trình bên Lào, chính quyền Hoa Kỳ trao nhiệm vụ cho ban Nghiên Cứu Hỗn Hợp (Combined Studies Division – CSD), một tiểu ban “Dân Sự Chiến Đấu” CIA đặt trụ sở trong tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Saigon. Đại Tá Gilbert Layton điều hành tiểu ban này (CSD), phiá Việt Nam do Thiếu Tá Trần Khắc Kính, chỉ huy phó Sở LL/PTT, đã thụ huấn xong khóa huấn luyện biệt kích Cramer chỉ huy. Làm việc với nhau, họ thảo ra chương trình Lei Yu (tiếng Madarin có nghiã là Mưa Sấm), sau đó đổi qua tiếng Anh là Typhoone, tiếng Việt là Lôi Vũ.
Thiếu Tá Kính xử dụng những toán biệt kích có sẵn trong liên đoàn 1 Quan Sát cho hành quân Lôi Vũ thay vì toán 15 người. Sau đó ông ta xem lại, xây dựng toán biệt kích 14 người “toán này có thể chia ra bốn tổ ba (3) người, thêm người chỉ huy và nhân viên truyền tin”. Ông ta nói thêm “Toán dễ chia ra trong trường hợp dưới áp lực của địch”. Đến giữa mùa hè năm 1961, 15 toán biệt kích (14 người trong toán) được đánh số từ 1 đến 15 tập họp trong căn cứ “Typhoon” gần trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Tất cả các toán biệt kích đều đã trải qua khóa huấn luyện nhẩy dù, biệt kích. Trong căn cứ, các toán Lôi Vũ nhận chỉ thị (lệnh hành quân) về nhiệm vụ của họ.
Sở LL/PTT và CSD phải xây dựng đơn vị tấn công (2 đại đội) khi các toán biệt kích tìm ra căn cứ của địch. Đầu tiên, Thiếu tá Kính lên bộ tư lệnh sư đoàn 22 Bộ Binh trên Kontum, nơi có nhiều quân nhân sắc tộc thiểu số Thái, sống trên vùng đồi núi miền bắc trước đây. 160 người được tuyển chọn, đưa về Thủ Đức trong tháng Bẩy để được huấn luyện nhẩy dù, biệt kích. Sau khi huấn luyện xong, đại đội có tên là ĐĐ1 Biệt Kích Dù dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Lương Văn Hơi, tốt nghiệp khóa 8 Đà Lạt, một người Thái trong vùng Điện Biên Phủ, đã từng chiến đấu trong tiểu đoàn 3 Nhẩy Dù.
Sau đó Thiếu Tá Kính đi Sông Mao, bộ tư lệnh sư đoàn 5 Bộ Binh, nơi có nhiều quân dân thiểu số Nùng, sống ở Mống Cái bờ biển miền Bắc. Ông ta tuyển chọn một đại đội rồi cũng đưa về Thủ Đức huấn luyện. Đó là đại đội 2 Biệt Kích Dù dưới quyền chỉ huy của Trung Úy Voòng Chay Mênh, một người Nùng đã tham dự chương trình White Star trước đó.
Trong lúc hai đại đội Biệt Kích Dù trải qua giai đoạn cuối việc huấn luyện, Thiếu Tá Kính đi bước đầu thả các toán biệt kích trong tháng Tám năm 1961. Toán biệt kích Lôi Vũ 1 do Thiếu Úy Nguyễn Văn Tôn làm trưởng toán lên chiếc Douglas C-47 không phù hiệu trong phi trường Tân Sơn Nhất bay qua biên giới Lào đến không phận tỉnh Attopeu. Toán biệt kích nhẩy dù xuống khu rừng phiá đông dọc theo bờ sông Se Kamane. Tất cả mặc quân phục không có phù hiệu, mang theo tiểu liên K Thụy Sĩ, để chính quyền Saigon có thể chối cãi trường hợp họ bị bắt.

Ngày hôm sau, ba toán biệt kích Lôi Vũ số 2, 3, 6 lên một C-47 bay sang Lào, nhẩy dù xuống khu vực thả toán 1 ngày hôm qua. Ít hôm sau, hai toán 7, 8 nhẩy dù xuống phiá nam nơi thả bốn toán trước đó. Sau khi các toán biệt kích nhận được thả dù tiếp tế, họ chia ra đi thám sát khu vực hoạt động. Cuộc hành quân biệt kích này thực hiện trong mùa mưa, gây khó khăn cho các toán biệt kích trong vấn đề di chuyển và quân đội Bắc Việt cũng hạn chế hoạt động. “Chúng tôi rất ít khi chạm địch”, theo lời Thiếu Úy Đặng Hưng Long trưởng toán Lôi Vũ 6.
Sau gần ba tháng hoạt động, các toán biệt kích gom lại, di chuyển bộ về hướng biên giới Lào-Việt. Lúc đó hai đại đội Biệt Kích Dù đã được không vận lên Kontum, có thêm hai Trung Sĩ y tá LLĐB/HK Paul Campbell và Ray James vừa mới sang Việt Nam từ Okinawa. Từ Kontum, đoàn quân di chuyển bằng xe đến một tiền đồn gần làng Ben Het (tam biên, sau này là trại LLĐB Ben Het, TĐ95/BĐQ/BP). Đến nơi, Đại Úy Hơi đại đội trưởng ĐĐ1 lấy ra một toán quân 90 người, di chuyển qua Lào lên đón bốn toán Lôi Vũ (1, 2, 3, 6) ở phiá bắc rồi đưa về. Cùng lúc, toán quân thứ hai đi đón hai toán ở phiá nam (7, 😎. Một tuần lễ sau, cả hai đại đội Biệt Kích Dù cùng các toán Lôi Vũ về đến Ben Het an toàn.
Trong tháng Chín, Thiếu Tá Kính phác họa một cuộc hành quân Lôi Vũ thứ hai nơi hướng nam Tchepone. Lý do vấn đề từ cuộc hành quân trước, các phi công C-47 không thả các toán biệt kích đúng mục tiêu, hai toán biệt kích 5, 10 được đưa sang căn cứ không quân Hoa Kỳ Takhli ở Thái Lan, lên phi cơ Curtiss C-46 Air America (CIA thuê). Với phi công, phi hành đoàn người Hoa Kỳ, hy vọng hai toán biệt kích sẽ được thả đúng mục tiêu hơn. Theo Miles Johnson, một trong ba chuyên viên nhẩy dù Hoa Kỳ đi theo chuyến bay “Họ ngồi rất chật chội (2 toán biệt kích), chúng tôi dùng giấy carton che cửa sổ bật đèn sáng bên trong máy bay cho họ bớt căng thẳng”.
Khi chiếc phi cơ C-46 bay vòng trên không phận phiá nam Tchepone, hai toán biệt kích Lôi Vũ (5, 10) nhẩy dù xuống một ngọn đồi nhỏ gần làng Muong Nong. Mọi chuyện không êm xuôi, một biệt kích quân bị thương nơi lưng lúc đáp xuống. Sau khi thiết lập liên lạc với bộ chỉ huy, toán biệt kích yêu cầu trực thăng cứu thương vào di tản. Điều này gây rắc rối cho Saigon, lúc đó hành quân Lôi Vũ chỉ được phép xử dụng phi cơ có cánh bay qua biên giới, chưa được phép xử dụng trực thăng. Cuối cùng, viên phó trụ sở CIA (Saigon) cũng chấp thuận và một phi cơ VNCH Sikorski H-34 bay đi cứu.
Việc đưa trực thăng cứu thương vào gây nguy hiểm cho các biệt kích quân còn ở lại. Địch quân theo dõi chiếc trực thăng đáp xuống, xác định vị trí hai toán biệt kích rồi tấn công, bắt sống quân nhân y tá trong toán 5. Cả hai toán biệt kích bỏ chạy về đến tiền đồn của VNCH ở Lao Bảo.
Cho chuyến hành quân kế tiếp, CIA và Sở LL/PTT quyết định trong tháng Mười Một, thiết lập lại sự hiện diện nơi phiá nam Attopeu. Lần này để tăng cường thêm sức chiến đấu, toán 4 sẽ xâm nhập cùng với một trung đội trong đại đội 2 Biệt Kích Dù. Trở lại với Không Quân VNCH, hai toán quân nhẩy xuống gần bờ sông Se Sou. Sau khi che dấu bao gạo gần bãi thả dù, quân biệt kích chia nhau đi nhiều hướng thám sát. Không như lần thám sát Attopeu trước, có nhiều dấu vết của địch. Theo lời trưởng toán 4 Cẩm Ngọc Huân “Chúng tôi có thể nhìn thấy ánh lửa nấu cơm của địch và nhiều hoạt động khác”.
Thời tiết gây trở ngại cho máy bay tiếp tế, khi quân biệt kích quay trở lại bãi thả dù, bao gạo dự trữ của họ bị chuột ăn hết. Quân biệt kích quyết định đi đến phi trường Attopeu với hy vọng đổi được đồ ăn với quân đội Hoàng Gia Lào. Trên đường di chuyển, quân biệt kích theo dõi một ngôi làng, trông thấy đàn ông xay lúa, mặc quân phục mà họ cho là đơn vị Hoàng Gia. Điều này làm cấp chỉ huy yên tâm hơn.
Sáng hôm sau, quân biệt kích lên máy báo cáo mục đích của họ rồi tiếp tục đi về hướng tây (ngôi làng). Sau khi di chuyển được khoảng 100 thước, họ bị bắn, Huân kể lại “Chúng tôi nhìn thấy dấu chân người nhưng vẫn tin là quân đội Hoàng Gia. Tôi la lớn bằng tiếng Lào, yêu cầu họ ngừng bắn”. Khi tiếng súng im, một trung đội bao vây quân biệt kích. Trong khi quân biệt kích hạ thấp súng để tỏ ý thân thiện, họ bị ra lệnh bỏ vũ khí xuống, đầu hàng. Cẩm Ngọc Huân nhận ra địch quân là một đơn vị hỗn hợp Pathet Lào và Bắc Việt, đã quá muộn để chiến đấu.
Khi quân cộng sản đi tịch thu súng, ba quân biệt kích Lôi Vũ, ba biệt kích Nùng vụt chạy vào rừng, hướng về Attopeu. Phần còn lại bị dẫn độ vào sâu trong rừng khoảng một cây số, thẩm vấn. Máy truyền tin của quân biệt kích vẫn còn tốt và họ bị ép buộc gọi về bộ chỉ huy báo cáo xin tiếp tế. Người lính truyền tin làm theo lệnh, nhưng khôn ngoan gửi thêm mật mã để báo động cho bộ chỉ huy, họ đang gặp nạn.
Lo lắng các biệt kích quân đang gặp nguy hiểm, Thiếu Tá Kính tính chuyện kế tiếp. Để có thời gian, ông ra lệnh cho quân biệt kích (bị bắt) quay trở lại bãi thả dù. Ông ta dự trù thả thêm quân biệt kích nơi hướng tây để lùa địch chạy về hướng đông, nơi có một đơn vị bộ binh VNCH bố trí sẵn dọc theo biên giới. Tuy nhiên đơn vị bộ binh VNCH từ chối tham gia kế hoạch của ông ta.
Một cách khác, Thiếu Tá Kính liên lạc với đối tác Hoàng Gia Lào của ông ta, yêu cầu xử dụng không quân thả bom. Sau bốn ngày, ông ta lên máy ra lệnh cho quân biệt kích chuẩn bị nhận hàng tiếp tế. Quân cộng sản cùng với tù binh biệt kích không ngờ bị phi cơ T-6 Không Lực Hoàng Gia Lào oanh kích. Lợi dụng lúc phi cơ thả bom, thêm ba biệt kích quân trong đó có nhân viên truyền tin toán 4 chạy thoát vào rừng.
Nổi điên vì sự chậm trễ, lừa đảo, quân cộng sản bắt các biệt kích quân cởi giầy ra (để khỏi chạy trốn). Đi chân không, tay trói sau lưng, các biệt kích quân được cho biết phải đi chừng một tuần lễ đến một phi đạo trong rừng, sau đó sẽ có phi cơ đưa ra bắc. Chỉ một ngày sau, một số biệt kích trốn thoát, chạy về Attopeu, trong đó có trưởng toán Lôi Vũ 4 Cẩm Ngọc Huân. Cuối cùng chỉ còn một quân nhân biệt kích bị bắt.
Được biết chuyện biệt kích quân VNCH, vị chỉ huy quân đội Hoàng Gia Lào ở Attopeu, Đại Tá Khong Vongnarath ra lệnh cho hai đại đội đi đón các quân nhân biệt kích đang chạy trốn. Đến cuối tháng Mười Một, 35 biệt kích quân đến Attopeu, Thiếu Tá Kính xin một phi cơ C-47 qua Lào đưa quân biệt kích về Việt Nam.
Để tránh thảm họa vừa qua, các toán biệt kích Lôi Vũ trở lại Tchepone đầu tháng Mười Hai. Trong sáu toán biệt kích chọn lọc, hai toán 1 và 5 nhận nhiệm vụ lần thứ hai. Với kinh nghiệm, trưởng toán 5 Nguyễn Ngọc Giang xin giảm nhân sự toán xuống sáu người để dễ di chuyển. Thiếu Tá Kính đồng ý, các toán khác vẫn giữ 14 người.
Sau khi ba toán biệt kích đã xâm nhập, ba toán còn lại lên hai chiếc C-47 trong phi trường Tân Sơn Nhất, bay đến mục tiêu. Sau khi bay nhiều vòng trên đầu bãi thả dù, không liên lạc được ba toán biệt kích dưới đất, họ phải bay về. Đêm sau, phi cơ bay trở lại và bắt liên lạc đưọc với quân bạn.
Trên chiếc phi cơ đầu, trưởng toán 5 Giang nhẩy ra trước với máy truyền tin để trong ba lô treo lủng lẳng giữa hai chân. Đó là một sai lầm lớn. Khi anh ta rơi xuống xuyên qua cành lá rậm rạp, máy truyền tin lôi anh ta, đập xuống đất rất mạnh, gẫy xương quai hàm. Toán viên trong toán 5 tìm thấy anh ta một tiếng đồng hồ sau. Họ dấu trưởng toán 5 Giang trong một hang động, lấy đi vũ khí của anh ta vì sợ anh ta tự sát. May thay, máy truyền tin vẫn tốt, quân biệt kích liên lạc xin trực thăng vào di tản.
Một lần nữa Thiếu Tá Kính được CIA chấp thuận cho phi hành đoàn H-34 Việt Nam bay qua đất Lào. Lần này chiếc H-34 được hai chiếc Douglas A-1 Skyraider hộ tống. Đích thân Thiếu Tá Kính ngồi trên một chiếc C-47 điều động việc cấp cứu. Theo kế hoạch, ông Kính bay lên vùng trước, trong khi hai trực thăng H-34 lấy thêm xăng ở Khe Sanh. Sau khi hai chiếc khu trục A-1 cất cánh từ phi trường Đà Nẵng, ít phút sau bị mất liên lạc. Không liên lạc được với phi cơ A-1, kế hoạch cấp cứu phải hủy bỏ, sau này được biết cả hai phi cơ A-1 đâm vào núi Ba Lòng.
Không còn trực thăng cứu thương vào di tản, bốn người trong các toán biệt kích ở lại bảo vệ Giang. Quân đội Bắc Việt truy lùng toán biệt kích làm họ phải bỏ chạy về Lao Bảo. Ngày 10 tháng Mười Hai, Giang cùng y tá toán 1 bị bắt.
Đến cuối năm, hành quân Lôi Vũ có vài thay đổi bề mặt. Từ tháng Bẩy, một biệt kích Liên đoàn 1 Quan Sát đi theo chuyến phi cơ thả dù tiếp tế bị bắt, khi phi cơ bị bắn rơi nơi miền Bắc, đã khai phần nào về hành quân Lôi Vũ. Do đó, Liên đoàn 1 Quan Sát đổi tên 77 (ngày 7 tháng Bẩy năm 1954, Tổng Thống Diệm nắm quyền). Cũng trong vụ phi cơ rơi nơi miền bắc, một nhân viên phi hành đoàn khai tên Đại Úy Bùi Thế Minh, nên Thiếu Tá Phạm Văn Phú được chỉ định thay làm liên đoàn trưởng liên đoàn 77. Ông Phú đã từng làm tiểu đoàn phó một tiểu đoàn nhẩy dù, nhẩy dù xuống Điện Biên Phủ và bị bắt khi căn cứ thất thủ.
Dưới quyền Thiếu Tá Phú, ông ta yêu cầu lập thêm hai đại đội Biệt Kích Dù 3 và 4. Đại đội 3, Thiếu Tá Kính chọn những quân nhân nhẩy dù VNCH đã thuyên chuyển ra đon vị khác, sau này ông ta thú nhận, đa số vi phạm kỷ luật. Đại đội 4 đa số là người theo đạo Thiên Chúa tình nguyện qua sự giới thiệu của linh mục Mai Ngọc Khuê. Đại đội này dưới sự chỉ huy của Trung Úy Trần Khắc Khiêm, em trai Thiếu Tá Kính.
Với bốn đại đội Biệt Cách Dù, hành quân Lôi Vũ trở lại đầu năm 1962. Không như lần trước xâm nhập vùng hành quân từ hai hướng Bắc Nam, lần này chỉ xung quanh Tchepone, không nhẩy dù, xâm nhập bằng đường bộ từ Khe Sanh.
Đại đội 1 Biệt Cách Dù với bốn toán biệt kích Lôi Vũ bắt đầu trong tháng Giêng. Họ di chuyển bộ đến một tiền đồn ở Lao Bảo sát biên giới. Sau đó theo hướng nam đến Muong Nong. Theo kế hoạch, đoàn quân này phải “nằm vùng” bốn tuần lễ, nhưng ít lâu khi vào đến khu vực hành quân, họ bị phát hiện bắn xối xả. Sau khi bốn biệt kích quân bị thương, họ phải rút lui về Lao Bảo. Theo lời một cấp chỉ huy Biệt Kích Dù “Ở Lao Bảo có 2 khẩu 105 ly và một đại đội thuộc sư đoàn 1 Bộ Binh. Từ căn cứ này, chúng tôi có thể đánh và chạy về hướng Tchepone”.
Cho đến cuối mùa Hè năm 1962, hành quân Lôi Vũ đóng quân ở Khe Sanh và Lao Bảo. Đến tháng Mười, một hiệp định Quốc Tế về hòa bình được áp dụng cho nước Lào, đòi hỏi tất cả quân đội viễn chinh (ngoại quốc) phải ra khỏi quốc gia Lào. Quân đội VNCH rút ra khỏi Lao Bảo, hành quân Lôi Vũ chấm dứt.
Tổng kết hành quân Lôi Vũ có 41 lần toán biệt kích hành quân xâm nhập, kéo dài từ một tuần đến ba tháng. Một chuyến xâm nhập đáng kể là lần xâm nhập theo dõi phi đạo nơi phiá tây Tchepone kéo dài hai tháng, nơi mà quân đội Bắc Việt xử dụng phi cơ vận tải chở đồ tiếp vận. Thêm vào có tám cuộc hành quân cấp đại đội do tin tức tình báo các toán biệt kích Lôi Vũ đem về.
Mặc dầu hành quân Lôi Vũ đã chấm dứt, nền hòa bình trên đất Lào không được lâu. Đầu năm 1963, Bắc Việt vi phạm nền hòa bình của nước láng giềng, có nhiều bằng chứng cho thấy họ gia tăng xử dụng hệ thống đường mòn HCM. Để đáp ứng tình thế, chính quyền Hoa Kỳ cho phép hành quân “vượt biên”, thâu thập tin tức tình báo. Một vòng thứ hai về các hoạt động bí mật phá hoại đường mòn HCM sắp bắt đầu.
Ken Conboy là cựu Phó giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Á Châu ở thủ đô Washington.
James Morrison là một sĩ quan về hưu sau 30 năm phục vụ trong quân đội.
Cả hai đã viết nhiều tài liệu về quân sử Á Châu, hành quân bí mật.
Đọc thêm: Shadow War (Chiến Tranh trong Bóng Tối): Cuộc chiến bí mật của CIA trên đất Lào. Tác Giả Ken Conboy, James Morrison.
Nguồn KiwiTeTua
Share Hoài Niệm Tuổi Thơ

Đại Tá Trần Khắc Kính

- Sinh tháng 7 năm 1929 tại Nam Định

- Nhập ngũ ngày 19-10-1951

- Xuất thân trường sĩ quan Nam Định Khóa 1

- Cựu Chỉ Huy Trưởng Sở Bắc


Saigon Nhỏ ngày 16.9.2005

 Hôm 29.8.2005, Đại Tá Trần Khắc Kính, người nắm nhiều bí mật lịch sử của Việt Nam Cộng Hòa, đã ra đi. Ông sinh ngày 4.7.1929 tại làng Ngọc Cục, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Ông tốt nghiệp Trường Sĩ Quan Nam Định năm 1951 cùng với các tướng Nguyễn Bảo Trị, Lê Nguyên Khang, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan, Nguyễn Duy Hinh, Nguyễn Đức Thắng, Vũ Đức Nhuận, Phan Phụng Tiên, v.v.

 Ông đến Mỹ sau khi ở tù 13 năm. Với sự khuyến khích của chúng tôi, ông đã ghi lại khá nhiều biến cố mà ông là nhân chứng. Khi những bài ông viết được đăng trên Saigon Nhỏ và nhật báo Người Việt, nhiều ngươi đã sửng sốt về sự hiểu biết và trí nhớ của ông. Những bài của ông dưới bút hiệu Tiên Châu hay Kim Thạch như “Lật một trang sử cũ”, “Những trận đánh trước khi rời miền Bắc”, “Gánh vàng đi đổ sông Ngô”, “Nhân đọc cuốn: Những Huyền Thoại & Sự Thật về Chế Độ Ngô Đình Diệm’ của Vỉnh Phúc”, “Vị lãnh-tụ cô-đơn”, “Hoa dù nở rợp trời xanh”, “Hành quân Lam Sơn 1 vào Mật khu Đỗ Xá”, “Ngày 30 tháng Tư đen”, “Truyện kể cuối tháng Tư”, “Vỗ ngực hay tản mạn về cuốn ‘Trả lại ta sông núi’ của cựu Đại Tá Phạm Văn Liểu... đã làm đảo ngược nhiều sự kiện bịa đặt được ghi lại trong một số hồi ký như “Việt Nam máu lửa quê hương tôi” của Đỗ Mậu, “Việt Nam Nhân Chứng” của Trần Văn Đôn, “Viêt Nam một thời tâm sự” của Nguyễn Chánh Thi, “20 năm binh nghiệp” của Tôn Thất Đính, “Trả lại ta sông núi” của Phạm Văn Liểu, v.v.

 

CHUYỆN NGƯỜI RA ĐI

Kinh Koran của Hồi Giáo có viết: “Sự thật xuất hiện và sự dối trá tiêu tan như một làn khói nhẹ.”, nhưng H.G. Bohn nói: “Sự thật và hoa hồng đều có gai”, nên ông đã gặp khá nhiều khó khăn lúc ban đầu. Những người có trách nhiệm lịch sử, những người viết phịa sử, các thân nhân và các đàn em của họ đều không muốn những sự thật lịch sử được đưa ra ánh sáng. Còn đám công an khu vực và dân quân xã ấp đã phản ứng rất điên cuồng. Rập theo phương thức của Cộng Sản mà họ đã học được khi còn ở trong nước, họ gọi điện thoại cho các báo ra lệnh không được đăng những bài của Đại Tá Trần Khắc Kính, gọi điện thoại đe dọa các cơ sở thương mại của thân nhân ông, đe dọa nếu Đại Tá Kính còn tiếp tục viết, họ sẽ “có biện pháp”... Họ cứ tưởng như họ là cán bộ của Bộ Công An và Bộ Thông Tin Văn Hóa của Hà Nội đang lãnh đạo CHXHCNVN tại hải ngoại! Nhưng đây là nước Mỹ chứ không phải CHXHCNVN, nên chẳng ai ngán những mệnh lệnh đó cả. Ông vẫn tiếp tục viết và Saigon Nhỏ vẫn tiếp tục đăng, nên họ đành phải chịu thua.

 Quả thật, ông đã giúp chúng tôi và những người viết sử rất nhiều trong việc biết rõ hơn nhiều sự kiện lịch sử đã xẩy ra dưới thời Việt Nam Công Hòa và hiệu đính lại những tường thuật sai lầm, nhất là vụ đảo chánh ngày 11.11.1960.

 Biết tôi đang cố gắng ghi lại các biến cố lịch sữ cận đại, nên mỗi khi gặp được nhân chứng nào, ông thường dẫn họ đến nhà giới thiệu với tôi để tôi có thể phỏng vấn những điều họ đã chứng kiến. Cứ mỗi tuần hay hai tuần, vào sáng thứ bảy, ông thường đến dẫn tôi đi ăn Phở 79, có khi đem thêm một nhân chứng, để tôi có thể tìm hiểu thêm những vấn đề mà tôi muốn biết.

 Tôi vẫn thường khuyến khích ông viết thêm những điều ông còn nhớ. Tôi đã cài chương trình tiếng Việt vào computer của ông và chỉ dẫn ông xử dụng computer để ông có thể viết bằng computer thay vì viết tay như lúc đầu. Nhưng kể từ ngày ông bị mổ gan đến nay, ông cảm thấy mệt mỏi, ông thích kể chuyện cho tôi nghe hơn là ngồi viết. Trong vòng 3 tháng trở lại đây, ông không còn lái xe được. Tôi gọi điện thoại thăm ông, ông cho biết tuần nào ông cũng phải đi chữa bệnh và lúc này yếu lắm. Tôi hỏi ông có cần đi chơi đâu, tôi chở ông đi. Ông nói lúc này các cháu đang nghĩ hè, muốn đi đâu, chúng nó sẽ chở đi.

 Bỗng nhiên sáng 23.8.2005 vừa qua, con ông gọi điện thoại cho tôi và nói ông muốn gặp tôi. Tôi gọi điện thoại lại nói chuyện với ông, ông cho biết ông gọi hoài cho tôi mà không được, ông muốn gặp tôi chiều nay. Tôi đến thăm ông lúc 4 giờ chiều. Ông nói với tôi rằng các bác sĩ đã cho ông biết bệnh của ông không còn chữa được nữa, các bộ phận trong cơ thể ông sắp ngưng hoạt động, chỉ trong một vài ngày hay vài tuần nữa thôi, nên ông có một số vấn đề cần nói với tôi. Những điều ông muốn nói, ông đã ghi sẵn trên miếng giấy, nhưng ông cho biết ông chỉ tiếp tôi khoảng nửa tiếng thôi, vì ông mệt lắm. Ông ngồi trên giường để nói chuyện, lưng tựa vào một cái gối cao. Tuy thân xác yếu mệt, nhưng đầu óc còn rất minh mẫn và tiếng nói vẫn sang sảng. Ông chỉ có hơi lảng tai, nên phải mang máy trợ thính. Ông dự trù chỉ tiếp tôi nửa tiếng, nhưng ông đã nói chuyện hơn một tiếng.

 Câu chuyện đầu tiên mà ông muốn nói với tôi là cuốn “Secret Army, Secret War” của Sedgwick Tourison viết về biệt kích Mỹ và VNCH nhảy ra miền Bắc. Ông cho biết trong đó có nhiều chuyện Tourison viết không đúng, như vụ toán Ares, vụ đưa cán bộ Đại Việt ra hoạt động tại miền Bắc, v.v. Ông định viết bài cải chính từ lâu, nhưng mệt quá, không viết nổi, nay ông nói với tôi được chừng nào hay chừng đó, để tôi tiếp tục viết.

 Khi thấy ông bắt đầu mệt, tôi xin phép về và hứa sẽ đến gặp ông trong những ngày khác. Nhưng hôm 25.8.2005, tức hai ngày sau, ông lại gọi cho tôi và nói ông muốn chính ông ghi lại những điều ông muốn nói, vì sợ tôi không thể ghi hết được. Ông đã xin đứa cháu được một cái Laptop và muốn tôi cài chương trình tiếng Việt vào cho ông. Ông nói trước đây có nhiều chuyện chưa tiện nói ra, nay ông sẽ nói hết.

 Lúc ba giờ chiều, tôi đem chương trình tiếng Việt đến gài vào Laptop cho ông nhưng không tin ông xử dụng được. Tôi hỏi ông tại sao không xử dụng computer đang để trên bàn vì dễ xử dụng hơn, nhưng ông nói ngồi trên ghế mau mệt lắm, nằm trên giường khỏe hơn. Con cháu đều không tin ông có thể làm được gì nữa, nhưng biết ông sắp ra đi nên ông muốn thứ gì cho thứ đó. Tôi ra về và dặn ông nếu cần gì cứ gọi tôi. Ông nói nếu có trục trặc khi xử dụng máy, ông sẽ điện thoại hỏi tôi.

 Mấy ngày sau không nghe ông gọi nữa. Chiều Chúa Nhật 4.9.2005, tôi mới được báo tin ông đã ra đi lúc 2:18 AM ngày 29.8.2005 rồi, nhưng trong gia đình chưa sắp xếp xong tang lể nên chưa công bố. Tôi im lặng một phút cầu nguyện cho ông.

 

TOURISON VIẾT KHÔNG ĐÚNG

Trong cuốn “Secret Army, Secret War” Sedgwick Tourison cho biết Lucien Conein đã móc nối với những nhóm Việt Nam Quốc Dân Đảng qua Vong A Sáng, một lãnh tụ các lực lượng của người Nùng ở miền Bắc trước đây, nhưng mạng lưới của Vong A Sáng không còn nữa. Sau khi liên lạc với các nhóm Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt, CIA đã yêu cầu Tổng Thống Ngô Đình Diệm gởi một số cán bộ Đại Việt ra miền Bắc để đánh giá xem những gì còn hoạt động ngoài đó. Hai người phụ trách về biệt kích tại miền Bắc lúc đó là Đại Tá Lê Quang Tung và Đại Úy Ngô Thế Linh đã sẵn sàng để gởi những điệp viên của họ cùng đi với các cán bộ Đại Việt. Tourison nói rằng ông ta biết sau đó một người phụ trách về điện đài đã được Đại Úy Linh sắp xếp để đi với toán Đại Việt, nhưng chuyện đó chẳng bao giờ xẩy ra... (tr. 56).

 Đại Tá Trần Khắc Kính nói với tôi rằng Tourison không biết gì về những bí ẩn của vụ này nên đã nói như vậy. Thật sự, Sở Nghiên Cứu Chính Trị của ông Trần Kim Tuyến đã huấn luyện 3 cán bộ Đại Việt để gởi ra Bắc làm chuyện này. Ít lâu sau, họ trở về làm báo cáo nói về tình hình miền Bắc, nhưng ông Nhu đọc và không tin đó là chuyện thật. Ông bảo ông Tuyến mở cuộc điều tra. Ông Tuyếnø phát hiện 3 người này không hề đi ra Bắc và báo cáo của họ là báo cáo láo.

 Tôi đã nghe ông kể câu chuyện này từ năm 1995, khi Tourison mới phát hành cuốn “Secret Army, Secret War”, nay ông kể lại với nhiều chi tiết hơn. Lúc đó tôi đã đem câu chuyện này nói với ông Cao Xuân Vĩ. Ông Vĩ đã cho tôi biết thêm một số chi tiết khác.

 Sau khi có sự khuyến cáo của CIA, ông Ngô Đình Nhu đã mời Bác sĩ Đặng Văn Sung, một lãnh tụ của Đại Việt, đến bàn chuyện, vì trước năm 1954, Bác sĩ Sung đã được Pháp giao cho liên lạc với các thành viên của VNQDĐ và Đại Việt đang tham gia tổ chức kháng chiến của Việt Minh trong chiến khu để lấy tin tức. Ông Vĩ cho biết Bác sĩ Sung đã giới thiệu 4 cán bộ Đại Việt, nhưng sau đó một người từ chối không đi nên còn lại 3 người.  Ông Nguyễn Văn An, một cán bộ công đoàn thuộc Tổng Liên Đoàn Lao Động của ông Bùi Văn Lượng, được giao cho hướng dẫn và chỉ đạo 3 cán bộ này xâm nhập ra miền Bắc hoạt động. Khi thi hành công tác này, ông An được mang lon hàm Đại Úy. Vì lúc đó Sở Nghiên Cứu Chính Trị của ông Tuyến chưa có ngân sách, nên ông Tuyến phải xin cơ quan CIA đài thọ các chi phí cho công tác đó. Sau khi được huấn luyện, cấp giấy tờ miền Bắc và tiền bạc, ba cán bộ Đại Việt đã ra đi, theo sự sắp xếp, chỉ đạo và theo dõi của ông Nguyễn Văn An.

 Theo ông Cao Xuân Vĩ, khoảng gần một năm sau, ông An viết báo cáo cho biết ba cán bộ Đại Việt đi miền Bắc đã trở lại và phúc trình về tình hình miền Bắc. Ông Tuyến đã trình bản phúc trình đó cho ông Ngô Đình Nhu xem. Sau khi đọc, ông Nhu nhận xét rằng đây là một bản phúc trình giả vì diễn tả không đúng với tình hình miền Bắc mà ông đã theo dõi. Ông ra lệnh cho ông Tuyến mở cuộc điều tra. Ông Tuyến phát hiện ra ba người này không hề đi ra Bắc, họ chỉ đi lẩn trốn một thời gian rồi ra làm báo cáo láo. Ông Nhu cho rằng nếu CIA biết được chuyện này, họ sẽ không còn tin vào cơ quan tình báo của VNCH nữa. Do đó, ông ra lệnh đưa ba người này đi giấu. Ông Tuyến liền gởi cả ba người lên cho ông Cao Xuân Vĩ đang thiết lập Bảo An Đoàn ở Đằ Lạt. Ông Vĩ liền gởi cả ba người vào một đồn Bảo An của người Thượng và không cho tiếp xúc với bất cứ ai. Khi biết được chuyện này, Bác sĩ Đặng Văn Sung đã xin vào gặp ông Nhu để giải thích, nhưng ông Nhu không tiếp.

 Nghe xong câu chuyện Đại Tá Trần Khắc Kính và ông Cao Xuân Vĩ kể, tôi liền xuống Santa Ana gặp Bác sĩ Đặng Văn Sung. Ông với tôi vốn quen biết nhau trước 1975, nên nói chuyện không có gì khó khăn. Bác sĩ Sung nói với tôi rằng lúc còn ở miền Bắc, Phòng 2 của Pháp chỉ giao cho ông liên lạc với các cán bộ VNQDĐ và Đại Việt còn hoạt động trong hàng ngũ Việt Minh ở chiến khu để lấy tin tức mà thôi. Khi Việt Minh thanh lọc hàng ngũ, loại các thành phần trí thức tham gia kháng chiến ra khỏi các đơn vị quân sự và hành chánh của họ, ông gặp khá nhiều khó khăn. Việc tổ chức mạng lưới tình báo ở miền Bắc, Phòng 6 của Pháp đảm trách, ông không hề hay biết gì về chuyện này. Khi rút khỏi miền Bắc năm 1954, Pháp không hề bàn giao mạng lưới tình báo này lại cho VNCH hay cho ông, nên ông không có cơ sở nào tại miền Bắc. Ông muốn gặp ông Nhu và trình bày cho ông rõ chuyện đó để ông dừng nghi ngờ Đại Việt không muốn hợp tác. Nhưng rất tiếc, ông Nhu đã không tiếp.

 Những chuyện Đại Tá Trần Khắc Kính nói về cuốn “Secret Army, Secret War” của Sedgwick Tourison còn nhiều, khi nào có dịp, chúng tôi sẽ kể tiếp.

 

CHUYỆN QUÂN ỦY ĐẢNG CẦN LAO

Đọc hồi ký của Đỗ Mậu và Tướng Tôn Thất Đính nói về Quân Ủy Đảng Cần Lao, Đại Tá Trần Khắc Kính rất giận. Ông nói họ chính là người trong cuộc mà nay viết đổi trắng thành đen như thế, còn gì là lịch sử nữa!

 Chúng tôi phát hiện ra một tài liệu của Mỹ cho biết năm 1955 chính phủ Eisenhower muốn Tổng Tống Ngô Đình Diện thành lập một đảng chính trị gióng Trung Hoa Quốc Dân Đảng để bảo đảm một chính quyền mạnh, có thể chống lại Cộng Sản. Ông Nhu đã làm theo lời khuyến cáo này. Bắt chước phương thức của Trung Hoa Quốc Dân Đảng (sau này là Đông Dương Cộng Sản Đảng cũng bắt chước), ông Nhu cho thành lập Quân Ủy Đảng Cần Lao và cài đảng viên vào làm Chính Ủy trong các đơn vị quân đội, từ cấp trung đoàn trở lên để nắm quân đội.

 Trong bài “Nhân đọc cuốn: Những Huyền Thoại & Sự Thật về Chế Độ Ngô Đình Diệm’ của Vỉnh Phúc”, Đại Tá Trần Khắc Kính cho biết:

Vào giửa tháng 12 năm 1955, Đại Hội Quân Ủy Đảng Cần Lao đã được tổ chức tại Bộ Chỉ Huy Phân Khu Duyên Hải ở Nha Trang. Ông Ngô Đình Cẩn đã trao cho Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm, Tư Lệnh Quân Khu II đứng ra tổ chức. Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm là người có công lớn với chế độ trong việc dẹp tan nhóm Đại Việt ly khai ở Quảng Trị năm 1955 nên được ông Cẩn tính nhiệm.

 Tướng Nghiêm và một số sĩ quan cao cấp khác như Tôn Thất Đính, Đỗ Mậu, Tôn Thất Xứng, Nguyễn Vinh, Phùng Ngọc Trưng... đã gia nhập Đảng Cần Lao từ năm 1955. Tướng Nghiêm có bí danh là Minh Sơn. Nhữmg người này đã được tuyên thệ tại nhà ông Ngô Đình Cẩn ở Phủ Cam, Huế. Lời tuyên thệ lúc đó như sau: “Trung thành với Tổ Quốc, trung thành với lãnh tụ Ngô Đình Diệm, và trung thành với Đảng Cần Lao Nhân Vị.”

 Không biết vì bận công việc gì, Tướng Nghiêm đã giao cho Trung Tá Đỗ Mậu, Tư Lệnh Phân Khu Duyên Hải, tổ chức Đại Hội Quân Ủy Đảng Cần Lao với những hướng dẫn chu đáo.

 Tham dự đại hội này có các đảng viên cao cấp trong quân đội như Tướng Tôn Thất Đính (bí danh là Vân Anh), Đại tá Tôn Thất Xứng (Linh Giang), các Trung Tá Đỗ Mậu (Hoàng Linh), Vũ Hùng Phi, Nguyễn Khương, Hoàng Lạc..., các Thiếu Tá Phùng Ngọc Trưng, Nguyễn Ngọc Khôi, Lê Văn Sâm..., các Đại úy Nguyễn Văn Châu (Duy Tiến), Lê Quang Tung (Việt Tồn), Phạm Thu Đường (Trường Minh), Ngô Văn Hùng, Phạm Văn Sơn, Trần Cẩm (Ánh Dương), Nguyễn Khương (Ái Chủng), Trần Khắc Kính (Vân An) ... Tuy nhiên, người ta không thấy Tướng Nghiêm đến tham dự đại hội.

 Đại Hội quyết định đặt tên Quân Ủy là Quân Ủy Lê Lợi và bầu Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm làm Bí Thư Quân Ủy, mặc dầu ông không có mặt trong đại hội. Đại Tá Tôn Thất Xứng được bầu làm Phó Bí Thư.

 Các đảng viên đã lần lượt đến trước bàn thờ Tổ Quốc lấy kim trích máu đầu ngón tay vào một ly rượu và tuyên thệ trước sự chứng kiến của ông Ngô Đình Nhu và Bác sĩ Bùi Kiện Tín, đại diện Trung Ương.

 Câu chuyện rõ ràng như thế mà cả Đỗ Mậu lẫn Tôn Thất Đính đều nói họ phản đối việc thành lập Quân Ủy Đảng Cần Lao!

 Sau khi vụ đảo chánh ngày 11.11.1960 bị dẹp tan, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã cử ông mở cuộc điều tra. Nhờ vậy, ông nắm rất vững hồ sơ của vụ này. Do đó, khi đọc hồi ký của Vương Văn Đông và Nguyễn Chánh Thi mô tả lại cuộc đảo chánh đó, ông bực mình lắm. Ông viết một loạt bài nói lên những sự thật, nhóm này mới im lặng.

 

NHỮNG CHIẾN CÔNG ĐÁNG GHI NHỚ

Trong cuộc đời binh nghiệp của Đại Tá Trần Khắc Kính, có lẽ các cuộc “Hành Quân Lôi Vũ” do ông chỉ huy là đáng ghi nhớ nhất. Đây là các cuộc hành quân đã được ông mô tả rất tỷ mỉ từng trận đánh một. Chúng tôi xin tóm lược như sau:

 Giữa năm 1961, một hội nghị Việt - Lào đã được tổ chức tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I ở Huế để bàn về phương thức phối hợp các hoạt động quân sự tại vùng biên giới Việt – Lào, nơi đang bị quân đội Bắc Việt khống chế.

 Sau cuộc họp này, Thiếu Tá Trần Khắc Kính, Phó Giám Đốc Sở Liên Lạc Phủ Tổng Thống, được giao trách nhiệm mở các cuộc hành quân trên đất Lào để ngăn chận Cộng quân xâm nhập vào miền Nam Việt Nam. Các cuộc hành quân này được lấy tên là “Hành Quân Lôi Vũ”.

 Các toán nhảy dù xuống đất Lào đều được luyện tập rất kỹ càng. Sau khi các cuộc huấn luyện hoàn tất, Bộ Chỉ Huy Hành Quân Lôi Vũ được dời từ War Room ở Sài Gòn lên Kontum và đặt ở hậu cứ của Trung Đoàn 42 thuộc Sư Đoàn 22. Thiếu Tá Trần Khắc Kính bay qua Attopeu thăm dò tình hình. Trung Tá Khâm Không, Tiểu Khu Trưởng Attopeu cho biết tiểu khu chỉ có thể kiểm soát từ Mường May, thủ phủ của Attopeu, đến Mường Cao nằm ở hữu ngạn sông Sé Kong, cách Mường May khỏng 10 cây số về phía đông mà thôi. Bên khia sông Sé Kong là “vùng tự do”, Pathet Lào thường hoạt động ở đây, nơi đó có con đường mòn nối Bản Phya Ya tới Bản Tà Xẻng.

 Cuộc Hành Quân Lôi Vũ đầu tiên trên đất Lào được thực hiện vào tháng 8 năm 1961 do hai Toán 7 và 8 thực hiện. Tiếp theo, Toán 1 được thả xuống phía tả ngạn sông Sé Kong, gần ranh giới giữa hai tỉnh Saravane và Attopeu, ở phía đông Cao Nguyên Boloven. Ngày hôm sau, các toán 2, 3 và 6 được tiếp tục thả xuống. Các toán phân ra từng khu vực để lục lọi, mỗi toán cách nhau vài cây số. Toán 4 do Trung Úy Cao Ngọc Huân chỉ huy được thả xuống sau cùng.

 Các toán 1, 2, 3 và 6 hoạt động trong vùng Phy Ya, đến đầu tháng 10 được lệnh triệt thoái theo đường bộ, khi đến chân núi thì được trực thăng H.34 đến bốc về.

 Giữa tháng 10, hai Toán 5 và 10 được thả xuống nam Bản Dông, gần Mường Nông, một quận đang do nhóm Khong Le kiểm soát. Vùng này có con đường mòn nối từ Bản Đông đến Mường Nông rồi vào tỉnh Savarane. Đây là đường Cộng quân đang dùng để chuyển quân, võ khí và các vật dụng xuống nam Lào. Chiến thuật của Bộ Chỉ Huy Lôi Vũ là mở các cưộc hành quân quấy phá liên tục trong vùng Nam Lào để Đoàn 559 của Cộng quân không thể hình thành con đường Tây Trường Sơn và không thể chuyển quân và hàng ồ ạt vào Nam.

 Khi mọi việc đang tiến hành tốt đẹp và đem lại những kết quả đáng khích lệ, bổng nhiên Sở Liên Lạc Phủ Tổng Thống ra lệnh ngưng hành quân và rút lui. Ông rất ngạc nhiên về lệnh này và tỏ ra rất bất mãn. Cho đến khi tới Mỹ rồi, ông vẫn còn lầu bầu về chuyện rút quân này và cho rằng Đại Tá Lê Quang Tung đã có quyết định sai lầm.

 Sau này, khi nghiên cứu lại lịch sử, tôi cho ông biết: Chính phủ Kennedy khi nắm chính quyền đã quan niệm rằng phải thực hiện một quốc gia Lào trung lập thật sự, tất cả lực lượng ngoại quốc phải rút ra khỏi Lào và cấm xử dụng lãnh thổ Lào vào các mục tiêu quân sự. Một chính phủ trung lập do Souvanna Phouma lãnh đạo sẽ cai trị toàn lãnh thổ Lào, kể cả các vùng do Phathet Lào kiểm soát. Công việc này đã được giao cho Averell W. Harriman thực hiện.

 

Nhưng ông Ngô Đình Nhu tin rằng sau khi trung lập hóa Lào, tình hình sẽ xấu hơn. Quân Bắc Việt sẽ dùng lãnh thổ Lào để xâm nhập vào miền Nam Việt Nam tự do hơn. Averell W. Harriman không tin như vậy. Ông tin rằng việc trung lập hóa Lào sẽ buộc quân Bắc Việt rút ra khỏi lãnh thổ Lào và không thể dùng lãnh thổ Lào để xâm nhập vào miền Nam Việt Nam nữa. Harriman nói với Tổng Thống Ngô Đình Diệm rằng nếu không ký vào hiệp ước trung lập Lào và rút quân về, Mỹ sẽ cắt hết viện trợ. Ông Diệm không còn cách nào khác là tuân theo, vì các cuộc hành quân Lôi Vũ đều do Mỹ đài thọ và yểm trợ.

 Ngày 23.7.1962, Hiệp Ước Hòa Bình tại Lào đã được ký kết. Ngày 20.8.1962 là hạn chót quân đội ngoại nhập phải rút khỏi Lào, nên Sở Liên Lạc Phủ Tổng Thống phải ra lệnh chấm dứt cuộc hành quân Lôi Vũ. Tuy nhiên, sau đó quân đội Bắc Việt chẳng những không rút mà còn gia tăng thêm. Mỹ phải can thiệp vào Lào trở lại.

 Nghe tôi trình bày, Đại Tá Kính nhìn nhận tôi nói có lý nhưng lại bất mãn với quyết định sai lầm của Hoa Kỳ.


 CHUYỆN NHỮNG TẤM HUY CHƯƠNG

Chiến công đáng ghi nhớ thứ hai của Đại Tá Trần Khắc Kính là cuộc Hành Quân Lam Sơn 1 vào Mật Khu Đổ Xá của Việt Cộng ở Quảng Ngãi.

 Đại Tá Lê Câu, chỉ huy Quân Báo miền Nam của Hà Nội, bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt của Dương Văn Hiếu bắt được. Sau khi khai thác, Đoàn biết được bộ chỉ huy Liên Khu 5 của Cộng Quân đang đóng tại Mật Khu Đổ Xá ở Quảng Ngãi. Đây là một cứ điểm được phòng thủ rất kiên cố. Tổng Thống Ngô Đình Diệm liền ra lệnh cho Tướng Trần Văn Đôn tổ chức hành quân phá tan mật khu này. Nhưng theo Đại Tá Kính, những gì Tướng Trần Văn Đôn đã khoe khoang trong hồi ký của ông không hoàn toàn đúng với sự thật. Đại Tá Trần Khắc cho biết như sau:

 “Mùa thu năm 1962, mưa lũ ở biên giới, tôi rút đa số các Toán về Trại Hòa Cầm để tái trang bị! Trung Tướng Đôn nhờ tôi thực hiện một cuộc thâm nhập vào Mật Khu Đổ Xá (vùng căn cứ, Bộ Chỉ huy đầu não của Liên Khu 5 Việt Cộng), lúc này đang do tên Tướng Việt Cộng Nguyễn Đôn làm Tư Lệnh. Các Toán đã đột nhập Mật Khu gây tổn thất nghiêm trọng cho Địch.

 “Vài tuần sau, cuộc Hành Quân Lam Sơn 2 được thực hiện, để tấn công vào Mật khu Nà Nêu của Tiểu Đoàn 90 Việt Cộng, nằm về phía Tây Quảng Ngãi, giáp ranh với Kontum. Trong lần hành quân này, Bộ Tư lệnh Quân Đoàn 1 đã cho Tiểu Đoàn 10 Đặc Biệt/ BĐQ đi theo các Toán Lôi Vũ.

 Cuộc đổ bộ được thực hiện bằng các Phi Đoàn trực thăng H.34 của Không Quân Việt Nam và một Đại Đội trực thăng H.21 của Mỹ (vừa được đưa từ Hoa Kỳ sang Đà Nẵng). Bữa đó các H.21 (chậm chạp lại có sức kéo quá yếu ở vùng núi), bị Phòng không và SKZ 57 của địch, từ triền núi bắn lên hạ được 3 chiếc. Tiểu Đoàn 10 BĐQ bị thương vong nhiều, trong đó có 2 Đại Đội Trưởng. Hành Quân Lôi Vũ mất 3 người: Thượng sỹ Nguyễn chí Thảo, Trung sỹ Voòng Hếnh Phùi và Hạ sỹ Y-Bring, trong chiếc H.21 bị bắn rớt. Nhưng vài ngày sau, Thượng sỹ Thảo đã băng rừng, về được đồn Trà Bồng và Y Bring cũng trốn thoát được về đồn Gi-Lăng (ở phía Tây Quảng Ngãi). Tức là Hành Quân Lôi Vũ chỉ mất độc nhất có một mình Trung sỹ Voòng Hếnh Phùi mà thôi, trong khi đó thì thiệt hại của địch thật là nặng nề.”

 Đại Tá Kính cho biết ông được Tướng Đôn giaó cho lập kế hoạch Hành Quân Lam Sơn 1. Vì đây là một mật khu được phòng thủ kiên cố với hỏa lực rất mạnh, nên rất khó xâm nhập được. Ông nghĩ ra một cách là cho làm một đại đội nhảy dù bằng hình nộm đưa lên máy bay. Sau khi cho pháo binh dập và không quân oanh tạc ở phía bắc mật khu, ông cho thả đại đội hình nộm này xuống. Cộng quân tưởng ta đang mở cuộc tấn công vào hướng này nên tập trung quân và hỏa hực vào đó. Ông liền cho các Toán Lôi Vũ tiến vào các hướng khác và phá tan Mật Khu Đổ Xá.

 Sau cuộc hành quân này, ba tướng Nguyễn Khánh, Trần Văn Đôn và Tôn Thất Đính đã đề cao ông quá mức với Tổng Thống Diệm. Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng, đã ra Quảng Ngãi chủ tọa lễ gắn huy chương. Quân Đoàn 1 đã cấp cho các đơn vị Lôi Vũ 50 huy chương Bạc và Đồng. Độc nhất chỉ có một huy chương sao vàng dành cho ông.

 Không Quân đã xử dụng toàn bộ 26 khu trục và phóng pháo hiện có để oanh kích vào Mật khu Đỗ Xá yểm trợ cho các lực lượng tham chiến. Do đó, Thiếu Tá Trần văn Minh được ân thưởng sao Bạc và Đại Úy Nguyễn Ngọc Loan được sao Đồng.

 Sau cuộc Hành Quân Lam Sơn 2, Tướng Đôn lại cấp thêm cho Hành Quân Lôi Vũ 50 huy chương nữa. Ông dự định mang chia cho các toán đã từng lập công trước đây ở bên lãnh thổ Lào. Bổng nhiên ông nhận được công điện yêu cầu chuyển tất cả về Trung Ương phân phối cho toàn thể Lực Lượng Đặc Biệt. Thấy thế, ông trả lui tất cả 50 huy chương lại cho Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 mà không cho biết lý do. Ông cho rằng các đơn vị khác không có công trạng gì trong vụ này để lãnh nhận huy chương.

 Giữa năm 1963, ông được chuyển xuống Vùng 4 để thành lập và chỉ huy Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Đặc Biệt. Đại Tá Lê Quang Trung muốn đưa ông về lại Sài Gòn, nhưng ông không muốn.

 

CHỈ TẶC LƯỠI BẢO “ĐỜI CHÓ MÁ”

Những ngày sau cuộc đảo chánh 1.11.1963 thật là kinh hoàng. Tướng Dương Văn Minh đã trao cho Tướng Mai Hữu Xuân, một tên mật thám Pháp cũ, làm Đô Trưởng Sài Gòn, kiêm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia và kiêm Đặc Ủy Trưởng Trung Ương Tình Báo. Với các chức vụ này, Tướng Xuân đã nắm quyền sinh sát trong tay. Ông dùng quyền lực này để đi tống tiền mọi người, nhất là những người có liên hệ đến chế độ cũ. Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và một số nhân vật khác đã kể cho chúng tôi nghe những chuyện tống tiền của Tướng Mai Hữu Xuân. Chúng tôi sẽ tường thuật lại trong những bài khác.

 Đặc biệt, Tướng Mai Hữu Xuân còn nhận 50.000 Mỹ kim của Tổng Cục Phản Gián Hà Nội để thả Trần Quốc Hương, trùm Điệp Báo Miền Nam của Hà Hội ra. Theo ông Nguyễn Tư Thái, tự là Thái Đen, tất cả những cán bộ cộng sản nằm vùng bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt bắt trước 1.11.1963, đều được Mai Hữu Xuân thả ra hết, sau khi nhận tiền của Việt Cộng. Các cán bộ này đã được Việt Cộng tập họp lại và thành lập hai tiểu đoàn Tây Đô và Phú Lợi. Một số cán bộ quan trọng khác như Trần Ngọc Hiền, Lê Hữu Thúy (được Đỗ Mậu che chở), Vũ Ngọc Nhạ... đã hoạt động trở lại. Nếu Mỹ không dùng Tướng Nguyễn Khánh làm cuộc chỉnh lý ngày 30.1.1964, chỉ khoảng một năm nữa là miền Nam mất vào tay Cộng Sản.

 Đại Tá Trần Khắc Kính tuy không dính líu gì đến các hoạt động mật vụ hay kinh tài của chế độ cũ, ông vẫn bị bắt giam một thời gian dài. Sau khi được phục hồi cấp bậc, ông chỉ được giao cho giữ những chức vụ “ngồi chơi xơi nước”.

 Đại Tá Trần Khắc Kính là một người có cuộc sống rất nghiêm khắc với chính bản thân mình, với gia đình cũng như với cấp dưới. Nhưng ông rất quan tâm đến những người thuộc quyền, lo lắng cho họ một cách chu đáo. Ông chỉ kết thân với những người mà ông cho là đứng đắn và không muốn tiếp xúc với những người mà ông cho là thiếu ngay thẳng. Trong quân ngũ, ông rất tận tụy với trách nhiệm được giao phó và cố gắng hoàn thành một cách tốt đẹp.

 Ông không chấp nhận những ý nghĩ hay mệnh lệnh sai trái và thường phản đối một cách thẳng thắn. Khi ông ra đi, Trung Tá Đặng Nguyên Phả, nguyên Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 23 và là bạn tù của ông ở trại Vinh Quang, đã làm một bài thơ tiển đưa ông như sau:

 

Trong cải tạo bác đẩy xe phân,

Để bắt đầu con đường thập giá.

Bác vẫn cười trong cảnh phi nhân,

Chỉ tặc lưỡi bảo “đời chó má”.

Đời chúng ta thật đúng phù vân,

Nên phải sống cuộc đời thánh hóa.

Bác ra đi là được Hồng Ân,

Xin chúc bác vui về nước Chúa.

 

Đại văn hào Voltaire nói: “Sự thật là một trái cây, chỉ nên hái khi nó đã chín muồi”. Nhưng thi hào Goethe của Đức lại bảo: “Tôi thích một sự thật có hại hơn một sai lầm có lợi: Sự thật có thể chữa được cái hại mà nó có thể gây ra.”

 

Chúng tôi nghĩ rằng đi theo con đường của Goethe là đúng.

Xin Thượng Đế sớm đưa ông vào nơi vĩnh phúc.

Tú Gàn

No comments:

Post a Comment