Mấy
chiếc trực thăng UH1 vừa thả 3 toán chúng tôi xuống đỉnh Đồng Đen đã
cất lên cao bay về căn cứ. Chúng tôi đến thay các toán khác về và yểm
trợ cho trung đội 3 TQLC đóng chốt ở đây. Chúng tôi nhanh chóng căng lều
ổn định chổ ở. Bọn tôi 4 trong số 33 đứa gồm: tôi, Lê Phước Hậu, Đặng
Kim Hùng và Lê Văn Tam sau khi rời Trung tâm huấn luyện Yên Thế (Long
Thành) được đưa về đoàn 72. Tôi, Hậu và Hùng được bổ sung vào toán 726
của thiếu uý Quách Tố Long, còn Tam qua toán khác. Chúng tôi là lính mới
tò te và đây là lần đầu tiên tham dự một cuộc nhảy toán thật sự nên có
đôi chút háo hức và bở ngở. Chúng tôi được phân công trực gác và có
nhiệm vụ gài claymore mấy con đường khi trời tối. Nhưng, khi mặt trời
còn ngang tầm mắt thì trung đội 3 TQLC được lệnh hành quân thoái. Các
toán trưởng của chúng tôi đã thống nhất với viên thiếu uý trung đội
trưởng TQLC tên Chung Quang Nhường là sẽ rút theo sau TQLC khoảng nữa
tiếng đồng hồ. Trời tối thật nhanh. Từ trên đỉnh Đồng Đen nhìn xuống,
mây trắng phủ lưng chừng núi nhìn khung cảnh hết sức thần tiên và yên
bình. Nhưng, lúc ấy tôi không biết rằng trước khi nổi bão tố thì trời
hết sức trong lặng, êm ả như đánh lừa. Lúc nầy cũng vậy. Quả nhiên chỉ
ít sau, đâu đó trong không gian vẳng lại tiếng xe tăng như muốn xé tan
cái tịch mịch của màn đêm. Tôi đoán là xe tăng của vc, nhưng tôi không
dám hỏi. Chúng tôi theo con đường anh em TQLC đã đi trước đó mà xuống
núi. Lúc còn trên đỉnh thì dù trời tối, nhưng vẫn thấy lờ mờ và khô ráo.
Nhưng, khi chui vào rừng thì sương mù dầy đặc đọng trên lá tụ lại rơi
xuống như mưa và xung quanh những chiếc lá mục phát sáng như muôn ngàn
ánh mắt của ma trơi cứ nhìn chòng chọc vào chúng tôi đầy đe dọa. Tuy
vậy, trời tối đến nổi tôi không thể thấy được bàn tay của mình giơ trước
mặt. Vì vậy, người đi sau cứ đâm sầm vào ba lô người đi trước. Sau đó,
ai đó đưa ra sáng kiến là treo những nhánh cây phát sáng nầy sau ba lô
để khi di chuyển nó sẽ đong đưa, những người đi sau sẽ nhìn vào đó mà đi
theo. Khoảng một tiếng đồng hồ sau, chúng tôi bắt kịp trung đội TQLC và
cả 2 lực lượng cùng nhau xuống núi. Đi được một lúc qua khỏi khu rừng
rậm, xung quanh không còn những ánh mắt ma trơi và mưa nữa. Chúng tôi đã
thấy được lờ mờ. Nhưng vào lúc nầy, tôi bất cẩn trượt chân té nhào
xuống triền núi. Do tôi cầm một cây M79 khá gọn, ít bị vướng víu gì nên
tôi cứ thế mà lao xuống. Nhờ có một thân cây chắn ngang đã giữ tôi lại
sau khi bị lộn 2 vòng. Ê ẩm nhưng may mắn là tôi không bị sứt mẻ gì
nghiêm trọng. Phía trên, tiếng anh em vọng xuống nho nhỏ hỏi tôi có làm
sao không? Có leo lên được không? Tôi trả lời không sao rồi nhanh chóng
lồm cồm bò lên hoà nhập vào hàng ngũ rồi tiếp tục di chuyển. Chúng tôi
cứ im lặng, lầm lũi đi như những bóng ma. Nghĩ đến đó tôi chợt thấy thú
vị : Đúng là bóng ma biên giới không sai. Nhưng, tôi đâu ngờ rằng đó là
những giây phút sảng khoái hiếm hoi cuối cùng mà tôi tự thưởng cho mình.
Trên đường đi, có một tiền đồn của lực lượng địa phương quân. Chúng
tôi định ghé vào nghỉ ngơi một chút rồi sẽ tiếp tục xuống núi. Nhưng,
đó là một sai lầm đắt giá. Lúc ấy, đơn vị ĐPQ đóng trong đồn đã bỏ đi
hết và chúng tôi không thể liên lạc được với họ. Vì vậy, khi gần đến
đồn, trung đội TQLC đi trước đã vướng phải mìn của chính đồng đội mình
gài để ngăn vc. Sau tiếng nổ chát chúa như xé toạc màn đêm, một số anh
em TQLC chết liền tại chổ, một số bị thương, kể cả trung đội trưởng
Chung Quang Nhường. Có một anh bị nát 2 chân. Anh nói chúng tôi làm ơn
bắn anh chết đi vì lúc nầy không còn cứu viện, tiếp tế gì được nữa mà
anh cũng không muốn sống đời tàn tật. Nhưng, những anh em TQLC còn lại
không thể và chúng tôi cũng vậy. Anh bèn chửi chúng tôi là những kẻ hèn
nhát và vô số từ ngữ khó nghe khác chỉ nhằm khích chúng tôi bắn anh chết
đi. Chúng tôi chỉ im lặng và sau đó rút đi sau khi để lại cho anh một
khẩu súng. Đi được chừng mươi bước, chúng tôi nghe một loạt đạn M16 vang
lên. Dù đã biết trước kết cuộc, nhưng sao vẫn nghe trong lòng áy náy,
xót xa. Lúc nầy, nhiệm vụ mở đường đã được chuyển cho các toán. Chúng
tôi tìm đường khác đi vòng qua đồn để tiếp tục xuống núi. Sau sự cố vừa
rồi, chúng tôi di chuyển một cách thận trọng nên tốc độ chậm lại và cũng
là để số anh em TQLC bị thương nhẹ nhưng vẫn còn đi, đứng được có thể
bám theo.
Chúng tôi xuống được gần tới chân núi thì đã quá trưa hôm
sau. Lúc nầy, chúng tôi được lệnh dừng lại nghỉ ngơi, ăn uống. Nhưng,
tôi đã quá mệt nên không thể nuốt nổi bất cứ thứ gì, chỉ khát nước. Cũng
lúc nầy, chúng tôi biết được rằng là đơn vị của chúng tôi đóng ở Tiên
Sa đã đi rồi, sau khi có anh em nào đó nêu thắc mắc sao không gọi trực
thăng bốc đi cho nhanh. Tuy vậy, có nguồn tin an ủi là còn vài chiếc tàu
của TQLC đang neo ngoài biển chờ rước chúng tôi. Nhưng, tôi không biết
được là từ nơi chúng tôi đang đứng đến mấy chiếc tàu của TQLC là bao xa?
Chúng tôi phải đi bao lâu mới đến được nơi đó? Tôi đã được học về cách
sử dụng bản đồ và la bàn để xác định vị trí. Nhưng lúc nầy, trong tay
tôi không có chúng mà chỉ có khẩu M79 thô kệch và không hơn gì khúc
gỗ.(Vì sao tôi nói như thế sau nầy sẽ đề cập). Chừng 15 phút sau, chúng
tôi tiếp tục lên đường. Hoá ra, từ chổ chúng tôi nghỉ chân đến cái làng
gần chân núi cũng không xa lắm. Nghe cái làng nầy cũng thuộc phe "quốc
gia" nên chúng tôi kêu anh em TQLC đi trước để người trong làng nhận
biết, vì các toán xâm nhập trang bị giống vc nên không khéo lại có
chuyện "ta đánh mình" thì không hay chút nào. Nhưng, tất cả chúng tôi
đều lầm. Khi những người lính TQLC đầu tiên thấy được những mái nhà đầu
tiên thì trong làng phát ra tiếng loa phóng thanh kêu gọi chúng tôi
buông súng đầu hàng để được hưởng khoan hồng. Chúng tôi khựng lại giây
lát sau sự cố bất ngờ nầy. Tiếng loa vẫn tiếp tục lập đi, lập lại cái
điệp khúc đáng ghét đó như một cái đĩa hát bị cà lăm. Tôi nhìn ngược lên
cái nơi mà chúng tôi đã từ trên ấy xuống. Tôi không thể nào nhận ra
đỉnh Đồng Đen ở đâu bởi sự chập chùng, trùng điệp của rừng núi Trường
Sơn. Tôi thở dài ngán ngẫm khi nghĩ tới cảnh phải quay ngược lên đó để
tìm đường thoát khỏi cái làng chết tiệt nầy. Nhưng, chỉ huy của tôi đã
quyết định đi vòng qua làng như đã đi vòng qua cái đồn ĐPQ trước đó để
ra ngã 3 Huế, nơi mà chúng tôi tin là còn những chiếc tàu của TQLC đang
đợi. Chúng tôi băng xuống ruộng lúa ngoài bìa làng để qua ngọn đồi phía
trước. Những thân lúa cao tới háng và sình, lầy đã làm chúng tôi di
chuyển hết sức khó khăn. Vài anh em đã bỏ ba lô để dể dàng xoay trở. VC
trong làng sau khi kêu gọi chúng tôi đầu hành không được đã nổ súng.
Từng tràng AK và rải rác tiếng pháo cối đã nhắm về phía chúng tôi mà
vang lên mỗi lúc một dồn dập hơn. Số anh em đi trước đã lên được trên
đồi, ẩn núp sau mấy bụi sim và bắt đầu bắn trả. Đạn nổ vang trời đã phá
tan cái tĩnh mịch của một buổi chiều làng quê. Tôi và Hậu hình như là
những người đi sau cùng. Chúng tôi cũng lần lượt trút bỏ ba lô vì những
người đi trước đã vô tình làm cho sình nhão ra và cái lún trở nên sâu
hơn, khó khăn hơn khi muốn rút chân lên. Tôi đã mệt lắm rồi, cơ hồ không
muốn nhúc nhích nữa. Nhưng tôi không muốn bị bỏ lại nơi đây. Tôi nhìn
lên phía trước tìm đồng đội, chỉ để tự an ủi là mình không đơn độc. Trên
lưng đồi, tôi thấy chuẩn uý Nguyễn Trọng Vui thuộc toán khác nhưng cùng
xâm nhập kỳ nầy, đang hiên ngang sãi bước cứ như chiến tranh đang diễn
ra ở nơi nào khác chứ không phải tại đây. Tôi thầm cảm phục sự dũng cảm
của anh ấy, người đã rất tự tin, bình thản trước cái chết đang chực chờ.
Bỗng nhiên, một trái đạn nổ sau lưng anh. Khói lửa, đất đá bùng lên che
khuất người anh. Sau khi khói bụi tan đi, tôi thấy chiếc ba lô sau lưng
và cây súng trên tay anh biến mất, quần áo rách lỗ chổ, nhưng anh vẫn
tiếp tục đi lên đồi và khuất sau mấy bụi sim. Tôi quay lại động viên Hậu
ráng lên. Lúc nầy, Hậu đã bị tụt lại đằng sau cách tôi vài mét. Có lẽ
nó đã quá mệt. Tôi thấy Hậu lấy bi-đông nước ra uống. Tôi nói cho tao
uống với. Nó thảy cái bi-đông cho tôi rồi xin tôi một trái lựu đạn
(Không hiểu sao Hậu lại không mang theo lựu đạn). Tôi tháo một trái M67
quăng cho nó rồi mở nắp bi-đông uống một hơi, xong tôi quăng lại cho nó.
Vì đã quá mệt nên lực ném của tôi không đủ sức đưa cái bi-đông tới chổ
nó. Nhưng, Hậu cũng không buồn chồm tới lấy cái bi-đông. Tôi nghĩ chắc
nó chờ khi bò tới sẽ lấy luôn cho tiện. Vì vậy, tôi quay lại trước và
tiếp tục bò. Được vài mét, tôi vạch bụi lúa án trước mặt và thấy bờ
ruộng kề bên. Tôi quay đầu về sau báo cho Hậu biết đã tới bờ ruộng rồi,
nhưng tôi thấy nó quỳ thẵng lên, 2 tay ôm trước bụng và mắt nhắm nghiền.
Tôi thoáng có ý nghĩ thằng nầy muốn tự sát nên la lên: Hậu! thì một
tiếng nổ từ phía nó vang lên, khói lửa bốc cao rồi nó đổ gục ra sau. Tận
mắt chứng kiến người bạn thân nhất của mình đã gắn bó với nhau, chia sẻ
ngọt bùi với nhau từ quân trường Đồng Đế (Nha Trang) đến Trung Tâm huấn
luyện Yên Thế (Long Thành) và cùng về một toán ở Đoàn công tác 72 rồi
cùng đi một chuyến xâm nhập, bị chết không toàn thây như thế, tôi đã
khóc nức nở như một đứa trẻ.....
12/7/2016
Dù
rất đau lòng, nhưng tôi không thể ở dưới ruộng hoài được, tôi phải
nhanh chóng theo những anh em khác rời khỏi cái nơi chết tiệt nầy. Tôi
vội bò thêm vài bước rồi lên bờ, tức là tôi đã ở dưới chân đồi. Nhưng,
tôi vô cùng hoảng hốt khi nghe tiếng súng AK nổ tứ phía, cả trong những
bụi sim "Thôi rồi! Không lý nào vc đã chiếm đuợc chổ nấp của anh em và
đang bắn những người khác?" Nhưng sau đó tôi đã kịp trấn tỉnh khi nhớ
lại lực lượng của chúng tôi cũng được trang bị AK47 như của vc để dể
dàng trà trộn vào chúng. Tuy nhiên, tôi lại rơi vào sự phân vân vì không
biết sẽ chạy về hướng nào để không phải rơi vào tay vc. Tôi phải vận
dụng những kiến thức quân sự mà tôi đã được học tập ở thao trường cũng
như nhớ lại những mẫu chuyện chiến đấu của ba tôi khi ông trao đổi với
bạn bè bên những bữa tiệc sau khi hành quân về (ba tôi là lính đại đội 2
trinh sát dù) cùng với sự nhận định cá nhân của mình để phân biệt
tiếng súng nào của phe ta và tiếng súng nào của địch. Như vậy, tiếng AK
từ những bụi sim trên đồi gần hơn và xen kẽ có tiếng M16 nhỏ hơn chắc
là của anh em mình. Nhưng, tôi lại phân vân khi nghĩ rằng mình có thể
đoán sai vì vc cũng có thể có M16 lắm chứ. Sau một thoáng chần chừ, tôi
quyết định chạy về phía những bụi sim vì nghĩ rằng nếu cứ đứng một chổ
mà suy tính lung tung thì sớm muộn gì cũng ăn đạn. Một liều, ba bảy
cũng liều. Tôi mở khoá an toàn cây M79 rồi chạy nhanh lên đồi về phía
những bụi sim. Vừa chạy, tôi vừa nhớ bài học về phản phục kích đã thụ
huấn ở Đồng Đế là khi bị phục kích, đừng nằm im một chổ làm bia cho
địch bắn mà hãy xông lên tấn công lại chúng. Đó là cách tìm đường sống
trong cái chết. Nếu tôi nhận định sai chạy vào ngay ổ vc thì...cưa
luôn. Bây giờ thuật lại những điều nầy nghe rất dài dòng, nhưng sự thực
lúc bấy giờ những ý nghĩ ấy lướt qua trong đầu tôi cực kỳ nhanh. Khi
chạy đến chổ bụi sim gần nhất, tôi thấy thiếu uý Quách Tố Long, toán
trưởng của tôi cùng những anh em khác của cả 2 lực lượng đang nã từng
loạt đạn về phía ngôi làng. Sà vào bụi sim đầu tiên, nơi có 2 anh lính
TQLC đang nấp, tôi lại khóc vì những trạng thái tình cảm trái ngược
đang xen lẫn vào nhau giằng xé nội tâm mình. Tôi vui vì mình đã nhận
định đúng, tôi đã tìm được đồng đội của mình. Tôi buồn vì nhớ đến Hậu
đã không có được may mắn như tôi và từ đây Hậu phải nằm lại một nơi
hoàn toàn xa lạ, giữa những người xa lạ và không biết có được chôn cất
đàng hoàng không hay bị vc kéo xác về đầu làng để cao giọng rêu rao là
đã chiến đấu anh dũng và bắn hạ được bao nhiêu tên "giặc"? Lát sau, khi
nhịp tim và cảm xúc đã trở lại bình thường, tôi nhìn quanh và thấy 2
người lính TQLC cũng trạc tuổi tôi đang phân chia nhau bắn một cây súng
M16, tức là anh nầy bắn vài phát rồi đưa qua cho anh kia. Hoá ra 2 anh
chàng nầy chỉ có 1 cây súng. Tôi cũng không thắc mắc tại sao lại như
thế mà chỉ quan sát xem hành động của 2 anh chàng nầy, thấy cũng hay
hay. Lúc đó, anh không có súng chỉ tay vào một bụi cây xa xa và nói với
anh đang cầm súng:
- Có một thằng ở bụi cây kia kìa, mầy có thấy hôn?
- Thấy rồi! Mầy coi tao hạ nó nè.
Nói
xong, anh cầm súng kê lên vai lấy đường ngắm. Tôi nhìn về hướng mũi
súng thì thấy một tên mặc bộ quần áo lính không ra lính mà dân cũng
chẳng phải dân đang lum khum di chuyển từ bụi cây nầy sang bụi cây khác.
Nó đang tìm cách đến gần chúng tôi hơn. Tôi thầm ước lượng khoảng cách
từ chổ chúng tôi đến tên vc chỉ từ 250 đến 300m. Tầm nầy thì dư sức
"lượm" thằng vc kia. Hồi ở quân trường, tôi học bắn cũng không tệ nên
mới dám nghĩ thế. Một tiếng nổ chát chúa phát ra từ họng súng của anh
chàng TQLC, tên vc vẫn tiếp tục di chuyển
- Trật rồi mầy. Đưa tao.
- Để tao bắn phát nữa!
- Thôi! Đưa đây tao. Mầy mà bắn trật nữa là nó tới sát đây luôn bây giờ.
Không biết có phải nghe anh kia hù hay không mà chàng này trao súng lại
cho chàng kia liền. Chàng kia đón lấy cây súng rồi đưa lên vai lấy
đường ngắm-đùng-tên vc vẫn không bị gì.
- Mầy bắn cũng đâu hơn gì tao mà bày đặt. Đưa đây tao.
Lúc
nầy, tôi không thèm quan tâm đến 2 anh chàng TQLC kia xem ai sẽ là
người bắn phát kế tiếp. Trước đây tôi nghe nhiều người nói khói súng làm
người ta hăng lên không còn cảm thấy sợ hãi nữa. Tôi không biết có
đúng không, nhưng tôi nghĩ đó là sự tự tin khi được cầm trong tay một
thứ có khả năng làm mình cảm thấy mạnh mẻ hơn mà thôi. Tôi cũng có thứ
ấy trong tay và muốn chứng minh mình cũng rất mạnh mẻ. Tôi ghếch nòng
cây M79 lên và ước lượng khoảng cách, xong tôi bóp cò- tạch-
không
nổ! Tôi hạ súng xuống, mở nòng, lấy viên đạn ra xem xét từ trong nòng
súng đến viên đạn để tìm nguyên nhân vì sao bắn không nổ? Tất cả đều
sạch sẽ và khô ráo dù đã trải qua một đêm lội dưới sương và khi lóp
ngóp dưới ruộng, tôi vẫn cố giữ súng không bị ướt. Tôi lại lắp đạn vào,
đóng nòng súng lại, mở khoá an toàn, lấy khoảng cách rồi bóp cò, cũng
chỉ là một tiếng tạch khô khốc. Tôi lấy viên đạn trong súng bỏ ra, rút
viên khác lắp vào, lại đóng nòng súng, mở khoá an toàn, canh khoảng
cách...nhưng tôi không còn thấy mục tiêu đâu nữa. Không biết nó đã bị
bắn chết hay đã di chuyển đi đâu. Tuy nhiên, để kiểm tra cây súng, tôi
nhắm hú họa vào bụi cây có tên vc nấp khi nãy, bóp cò. Vẫn chỉ là một
tiếng tạch. Chán chường, tôi tính liệng cây súng đi, nhưng chợt nghĩ
lại: Không lẽ mình đi tay không? Nếu phải đánh xáp lá cà thì có cây
súng làm binh khí cũng đỡ hoặc bất chợt gặp tụi vc mà mình chĩa cây
súng nầy ra dọa thì tụi nó cũng sợ té đái và cái đáng sợ nhất là sau
nầy về đơn vị trình diện mà báo mất súng lúc đang chiến đấu thì ra toà
án binh chắc cú luôn. Vì vậy, tôi vẫn giữ lại cây súng vô dụng đó.
Bắn nhau với vc chừng 15 phút nữa rồi chúng tôi bắt đầu rút đi, bởi
chúng tôi không biết quân số của chúng, loại vũ khí mà chúng được
trang bị và chúng tôi cũng không phải là một đơn vị tác chiến như TQLC
hay nhảy dù v.v...Hơn nữa, chúng tôi cần nhanh chóng ra biển cho kịp
chuyến tàu. Lúc rút đi, tôi hơi ngạc nhiên là sao vc không tổ chức đuổi
theo chứ tôi không biết rằng đã có anh em tình nguyện ở lại để ngăn
cản sự truy sát của vc và người đó chính là viên sĩ quan dũng cảm tôi
nhìn thấy đã đi hiên ngang trên đồi, chuẩn uý Nguyễn Trọng Vui.....
12/11/2016
Việc
mất liên lạc với các đơn vị có liên quan đến cuộc hành quân xâm nhập
của chúng tôi và sự trở mặt của cái làng trước đây thuộc về "quốc gia"
ấy, đã làm chúng tôi phần nào cũng hiểu đuợc quân đội VNCH đã không còn
kiểm soát được khu vực Đà Nẵng-Quảng Nam và vc đang chiếm lĩnh khắp
nơi nên chúng tôi hết sức thận trọng khi di chuyển nhằm tránh bị phát
hiện. Tình thế bây giờ hết sức nguy hiểm. Chúng tôi không thể tin vào
bất kỳ ai cho dù chỉ là đứa trẻ chăn trâu hay những người làm ruộng, đốn
củi v.v...và sẽ trả giá đắt nếu để cho ai đó nhìn thấy sự hiện diện
của mình. Chúng tôi len lỏi theo những bụi cây mọc trên các ngọn đồi để
đi về phía biển, nơi chúng tôi vẫn cố gắng tin rằng còn những chiếc
tàu đang neo đậu đâu đó ngoài khơi để chờ chúng tôi. Trời bắt đầu đổ
mưa. Những cơn mưa tuy không lớn, không nặng hạt như trong miền Nam,
nhưng nó dai dẵng, dầm dề đến khó chịu. Chúng tôi ướt lướt thướt và tôi
thấy đói bụng, đã gần một ngày đêm rồi còn gì. Nhưng, cũng như phần
lớn anh em, tôi đã bỏ ba lô đựng lương khô dưới ruộng khi đụng độ với
vc. Tôi liếm nước mưa trên môi cho đỡ khát và cũng hy vọng sẽ đỡ đói
phần nào, nhưng vô ích, cái dạ dầy lép kẹp của tôi như bị đánh thức. Nó
cồn cào, thôi thúc, xâu xé tôi mãnh liệt hơn, nhưng không có gì xung
quanh để tôi có thể cho vào miệng ngoại trừ những chiếc lá xám xịt của
những bụi cây mọc hoang trên đồi. Tôi đi theo anh em trong trạng thái
vô thức. Một lúc sau, tôi chợt tỉnh vì đoàn người đã dừng lại. Một con
đường đất phía dưới đồi cách chúng tôi chừng trăm mét hiện ra xa tít
tầm mắt, nhưng chen chúc trên đó là lớp lớp cộng sản Bắc Việt đi cặp
theo những chiếc molotova, loại quân xa của Trung cộng viện trợ cho Bắc
Việt, kéo theo sau những khẩu cao xạ, đang ùn ùn tiến về phía mà tôi
nghĩ là thành phố Đà Nẵng. Chúng đông đến mức chỉ có quân số ở các quân
trường mới có thể so sánh được, nghĩa là cả hàng ngàn người. Chúng đi
nghênh ngang, không cần ngụy trang và nói năng ồn ào cứ như gầm trời
nầy đã thuộc về chúng. Điều nầy càng củng cố thêm suy đoán của tôi là
cộng sản đã chiếm thêm Đà Nẵng sau Phước Long, Buôn Ma Thuật và Huế.
Chúng tôi nằm như dán xuống mặt đất và bất động như hoá đá, ngay cả
việc hít thở cũng không dám làm mạnh vì chỉ cần một sơ suất nhỏ để kẻ
địch phát hiện ra thì số phận của toàn bộ 18 anh em chúng tôi gồm 9
người của đoàn 72 và 9 của TQLC xem như đã an bài. Chúng tôi căng mắt
nhìn vào kẻ địch đang di chuyển bên dưới mà hết sức lo lắng, thầm cầu
mong đừng có ai trong số cả ngàn người kia chột bụng hay buồn tiểu tách
khỏi hàng quân chạy lên đồi giải quyết thì...Nhưng, vị thần may mắn
chưa rời bỏ chúng tôi trong cơn nguy khốn như thế. Chốc lát, trời tối
xuống thật nhanh đã hoà chúng tôi vào màn đêm một cách hoàn hảo. Chúng
tôi lặng lẽ trườn đi, cố gắng không gây ra tiếng động nhất là không để
đất đá trượt xuống phía dưới. Được khoảng khá xa có thể cho là an toàn,
chúng tôi lại đứng lên lom khom mà đi. Cứ đi được một chút thì dừng
lại, ngồi xuống nghe ngóng, quan sát động tĩnh rồi lại đứng lên lom
khom đi tiếp. Lúc nầy cơn đói tạm dịu đi thì tôi lại nghe buồn ngủ. Mỗi
lần dừng lại thì 2 mắt tôi như dính lại với nhau làm tôi chỉ muốn nằm
lăn ra đất mà ngủ, nhưng tôi lại sợ mình bị anh em bỏ rơi dù điều nầy
chắc chắn không bao giờ xảy ra. Đến quá nữa đêm, chúng tôi lọt vào một
vườn dưa leo của ai đó. Mọi người nhanh chóng tìm hái vài trái ăn cho
đở đói. Với sức vóc thanh niên tuổi 18 như tôi mà chỉ bỏ vào miệng 2
trái dưa lớn hơn ngón tay cái một chút thì thật chẳng thấm vào đâu.
Nhưng anh em đã nhanh chóng lên đường mà tôi thì không muốn bị bỏ lại.
Chúng tôi đi, đi mãi đến gần sáng thì ra tới một cái nghĩa địa. Tôi
nghĩ thầm: " Như vậy là cũng gần một cái làng nào đó nữa rồi". Lần nầy,
thiếu uý Quách Tố Long toán trưởng của tôi, chuẩn uý Chung Tử Ngọc
toán phó và thiếu uý Chung Quang Nhường trung đội trưởng trung đội 3
TQLC sau khi bàn bạc đã quyết định cho anh em dừng lại ngủ, nghỉ chờ
trời sáng vì các anh cho biết phải đi qua một cái làng trước khi ra
quốc lộ 1 mà như vậy không thể đi thành đoàn dài mà phải chia nhau
thành từng tốp nhỏ 2,3 người giả như dân đi rừng, đi rẫy và phải bỏ lại
toàn bộ súng ống, đạn được cùng những vật dụng quân trang, quân dụng
khác ở nghĩa trang, để đi qua làng ra quốc lộ 1, sau đó tìm đường ra
biển. Tôi đã quá mệt nên khi nghe lệnh dừng lại ngủ, nghỉ là tôi vội
nằm xuống chìm sâu vào giấc ngủ. Tôi thức giấc khi những tia nắng đầu
tiên chiếu vào mắt. Tôi đoán chừng mình đã ngủ được khoảng hơn nữa tiếng
đồng hồ. Tôi nhìn quanh tìm đồng đội. Hình như họ không ngủ hay sao ấy
mà đang dùng tay moi đất thành những cái rãnh rồi cho súng, đạn và đôi
giầy xuống, sau đó lấp lại. Tôi cũng làm như vậy. Thật may, xung quanh
ngôi mộ tôi nấp có khá nhiều cát nên việc dùng tay bới cát của tôi
cũng không khó khăn lắm. Sau khi lấp xong cây M79, đôi giầy và mấy trái
lựu đạn, tôi giữ lại một trái mini và nhét vào lưng quần. Trong tình
thế không còn gì để mất, tôi sẽ hành động như Hậu. Quốc lộ 1 cách chổ
chúng tôi nấp không xa lắm, vẫn xe cộ ngược xuôi, người qua kẻ lại. Duy
chỉ có điều lạ là trên mui những chiếc xe GMC hay JEEP lại gắn thêm cờ
Phật giáo sặc sỡ như chuẩn bị tham dự một lễ hội nào đó. Chúng tôi cố
đoán nhưng cuối cùng vẫn không hiểu tại sao lại thế. "Chút nữa thì biết
chứ gì!". Tôi nghĩ vậy. Chúng tôi phân ra từng nhóm nhỏ 2 hoặc 3 người
rời chổ nấp ở nghĩa trang, đi vào làng. Tôi và một người lính TQLC nữa
đi sau cùng. Tôi tự nhắc mình phải bình tĩnh chú ý xem chừng những tốp
đi trước có bị trở ngại gì không để có thể hổ trợ, nhưng quái thật
không thấy họ đâu và cũng không thấy người nào trong làng đi lại. "Chắc
đi làm hết rồi"-Tôi thầm nghĩ vậy. Nhưng đúng lúc tôi cảm thấy nhẹ
nhỏm thì sau lưng vang lên tiếng gọi.
- Nầy! Mấy anh kia đi đâu đấy? Đứng lại! Có giấy tờ gì đưa ra coi.
Tôi
ngoái nhìn ra sau thì thấy 2 thanh niên mặc đồ dân sự, tay cầm M16
chĩa về mình và đang đi theo sau lưng chúng tôi. Trong lúc tôi đang
phân vân tự hỏi 2 thanh niên nầy là nhân dân tự vệ hay là vc thì anh
bạn TQLC bỏ chạy làm tôi cũng co giò phóng theo. Sau lưng, tiếng la:
"Đứng lại! Đứng lại!"...đuổi theo rồi tôi nghe tiếng lên đạn và 2 tiếng
súng nổ vang, nhưng tôi vẫn cắm đầu chạy. Tôi chạy nhanh hết mức có
thể, lồng ngực tôi như muốn vỡ ra, nhưng tôi cũng biết rằng mình không
thể nhanh hơn viên đạn, tuy vậy tôi vẫn chạy. Khi chỉ còn cách quốc lộ 1
chừng vài mươi mét thì trước mắt tôi 3 người đàn ông cầm súng M16 có,
AK cũng có, xông ra chận tôi lại. Lố nhố sau lưng những người nầy là
một số anh em đi trước. Thì ra, chúng bố trí chốt gác ở đầu làng để
chận xét bất cứ ai lạ mặt ra vào làng. 2 tên khi nảy mà giờ tôi biết
chắc chắn là du kích có nhiệm vụ đi tuần tra quanh làng đã không thèm
đuổi theo chúng tôi mà chỉ cần nổ súng báo cho tụi ở chốt gác đầu làng
ra chận lại là xong. Trong lúc tụi nó đang hỏi mấy người khác thì tôi
dùng ngón chân cái xoay xoay trên đất để moi một cái lỗ rồi kéo lưng
quần ra cho trái lựu đạn mini rớt xuống, xong tôi dùng chân lùa cát lấp
lên trước khi bọn chúng xét hỏi tới mình. Kiểm tra xong, chúng đưa
chúng tôi vào một căn phòng mà tôi nghĩ là nhà kho vì nó chẳng có đồ
đạc gì bên trong. Đầy đủ 18 người không thiếu một ai. Chúng tôi ngồi
một lát thì có vài người, trong đó có một cán bộ cộng sản Bắc Việt với
quân phục thùng thình, bước vào. Chúng vừa ghi chép vừa hỏi từng người
chúng tôi về đơn vị, cấp bậc, chức vụ v.v...xong rồi hỏi chúng tôi có
ăn uống gì chưa? Khi biết chúng tôi chưa ăn gì, tên cán bộ cộng sản Bắc
Việt kêu những người trong làng nấu cơm cho chúng tôi ăn liền, rồi sau
đó bỏ ra ngoài. Chúng tôi ngồi suy nghĩ mông lung một lát thì lại có
thêm một người bị bắt đưa vào phòng. Người nầy mặc quần áo dân sự rất
chỉnh tề, tay mang theo một cái va-ly trông như nhà doanh nghiệp hơn là
một quân nhân. Nhưng, qua trao đổi với nhau chúng tôi mới biết ông là
một sĩ quan cấp tá đang tìm đường vào Sài Gòn và cũng như chúng tôi,
ông không có giấy tờ gì khi qua chốt gác của vc. Chừng non một tiếng
sau, vài người dân trong làng, lần nầy có cả phụ nữ, mang cháo và thịt
heo kho vào cho chúng tôi. Họ nói chúng ăn tạm cháo vì đã bị đói mấy
ngày, nếu ăn cơm bây giờ sẽ không tốt. Thấy họ đối xử cũng không có
thái độ thù địch lắm nên chúng tôi tạm yên tâm. Nhưng, sự yên ổn ấy
không kéo dài được lâu vì vào khoảng 8 giờ tối, mấy tên bộ đội Bắc Việt
với đầy đủ súng ống xuất hiện dẫn người sĩ quan cấp tá mặc thường phục
đi với lý do đưa ra ông ấy là ngụy quyền gì đó nên cần tách riêng.
Chúng tôi ở lại với ngổn ngang những cảm xúc, vừa lo cho ông ấy không
biết bị đưa đi điều tra để moi thêm tin tức hay bị xử bắn không chừng?
Nhưng, dù thế nào thì số phận của ông ấy cũng lành ít dữ nhiều. Chúng
tôi cũng hết sức lo lắng cho tính mạng của anh em mình vì binh chủng
của chúng tôi cũng thuộc vào loại "đầy nợ máu với nhân dân" theo cách
nói của cộng sản mà thực ra phải gọi là chỉ với bọn xâm lược phương Bắc
thì đúng hơn. "Không biết khi nào đến lượt mình ra đồng đây?" Tôi luôn
trăn trở với suy nghĩ như trên nên cả đêm hầu như không ngủ được. Mấy
anh em khác chắc cũng vậy vì tôi nghe thi thoảng trong đêm văng vẵng
tiếng thở dài. Nhưng, chúng tôi đã quá lo xa vì đêm đó không có điều gì
xảy ra với chúng tôi cả.
Sáng hôm sau, tên cán bộ cộng sản Bắc
Việt cùng vài người trong làng đến chổ chúng tôi ngủ, y nói một thôi,
một hồi về cái gọi là căn cứ vào chính sách nhân đạo gì gì đó của chính
quyền cách mạng đối với tù, hàng binh nên quyết định thả chúng tôi đi.
Tạm mừng vì duy trì được mạng sống, nhưng ruột gan chúng tôi cũng rối
như mớ bòng bong vì chúng tôi biết đi về đâu khi đơn vị không còn nữa?
18 anh em chúng tôi đều từ miền Nam ra, không có thân thích gì ở cái
nơi xa lắc, xa lơ nầy thì việc ăn ở phải nói là vấn đề nan giải. Chúng
tôi đi một cách vô vọng về hướng Đà Nẵng, không ai nói với ai tiếng
nào. Hình như chúng tôi sợ phải nói ra sự thật đang đè nặng lên tâm tư
mỗi người. Dọc đường, chúng tôi thấy vô số quần áo, vật dụng của các
quân binh chủng vất ngổn ngang và dân chạy giặc tay xách, nách mang lũ
lượt kéo đi như trẩy hội, người đi vào lại có kẻ đi ra không biết đâu
mà lần...
12/12/2016
Trên đường đi về phía thành phố Đà Nẵng, chúng tôi nhiều lần bắt gặp
hình ảnh những vị sư ngồi chễm chệ trên những chiếc xe JEEP quân sự của
VNCH, nhưng lại do cán binh cộng sản lái chạy tới,chạy lui. Trước khi
gia nhập quân đội, tôi là một Phật tử thuần thành thường xuyên đi chùa,
lễ Phật và là thành viên ban hộ niệm của niệm phật đường Lữ đoàn 2 nhảy
dù, nhưng khi nhìn thấy những hình ảnh trên, niềm tin tôn giáo của tôi
bị vỡ vụn hoàn toàn. Tôi cũng được nghe nhiều người nói có những kẻ xin
đi tu để trốn quân dịch hoặc cộng sản nằm vùng đội lốt các nhà tu v.v...
nhưng lúc ấy tôi chỉ nghĩ : " Tai nghe không bằng mắt thấy"và hôm nay
tôi đã được tận mục sở thị rành rành. Chúng tôi tìm đến chùa tỉnh hội
thành phố Đà Nẵng vì chỉ có nơi đây mới dung chứa thập phương bá tánh mà
không đòi hỏi điều kiện gì. Trước sân chùa, một đống cao bằng nóc nhà
súng ống đủ loại và cơ man là người, cả dân chạy giặc và lính các binh
chủng. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được chổ cho 18 anh em nằm nghỉ.
Khi đã yên vị, tôi nghe đói bụng nên tìm xuống bếp nhà chùa để kiếm thức
gì đó bỏ bụng, nhưng đã có hàng đống người xếp hàng dài chờ đợi trước
đó rồi, chẳng có cách nào khác tôi cũng phải xếp hàng theo. Nhìn những
người vừa lãnh phần ăn xong quay ra, tôi nhìn trên tay họ chỉ có chén
cháo lỏng nấu với ít cà rốt băm nhuyễn. Dù rất thất vọng nhưng biết sao
được khi số lượng người quá đông so với khả năng cung cấp của nhà chùa.
Cũng phải mất 15 phút xếp hàng, tôi mới được phát cho một chén cháo,
chẳng bỏ bèn gì so với một thằng thanh niên 18 tuổi, cao 175cm và nặng
60kg đang tuổi ăn, tuổi lớn như tôi. Tôi tính ăn xong chén cháo sẽ quay
lại vài lần đến khi no bụng thì thôi, nhưng nhìn hàng người xếp hàng dài
dằng dặc đến vài chục mét thế kia, tôi bỏ luôn ý định đó. Trong thời
gian lưu lại chùa, chúng tôi nghe những nguồn tin do người dân loan
truyền là cộng sản đã chiếm được chổ nầy, chổ khác và chúng tiến đến đâu
lính quốc gia lại buông súng đầu hàng đến đó. Không biết những người
khác nghĩ sao chứ cá nhân tôi rất thất vọng khi nghe những tin tức như
thế. Tôi tự nguyện gia nhập quân đội khi mới 17 tuổi sau khi xem một
phim tài liệu về cuộc pháo kích của vc vào một trường học ở Cai Lậy giết
chết nhiều trẻ em. Tôi đã nằng nặc xin nghỉ học để đăng lính dù mẹ tôi
khóc hết nước mắt năn nỉ tôi hoãn lại ý định nhập ngũ mà chờ ba tôi về-
lúc đó, ba tôi cùng đơn vị đại đội 2 trinh sát thuộc Lữ đoàn 2 nhảy dù,
đang đóng quân ở Non Nước Đà Nẵng, nhưng tôi là loại người không dễ dàng
từ bỏ mục đích của mình. Thế là tôi lên đường với hành trang mang theo
là một trái tim tan nát của mẹ mình (cầu xin mẹ ở trên cao tha thứ cho
sự nông nổi, bồng bột của con lúc trẻ). Nhưng, tôi lại nghe cộng sản sẽ
lùa dân và nhất là lính quốc gia đi đầu làm bia đỡ đạn trong trường hợp
quân đội VNCH phản công để chận đà tiến của chúng. Nói chung, là dù thế
này hay thế kia thì những tin tức ấy không lấy gì làm vui vẻ.
12/13/2016
Trên đường đi, chúng tôi nhiều lần bắt gặp hình ảnh những vị sư ngồi
chễm chệ trên những chiếc xe JEEP quân sự của VNCH, nhưng lại do cán
binh cộng sản lái chạy tới,chạy lui. Trước khi gia nhập quân đội, tôi là
một Phật tử thuần thành thường xuyên đi chùa, lễ Phật và là thành viên
ban hộ niệm của niệm phật đường Lữ đoàn 2 nhảy dù, nhưng khi nhìn thấy
những hình ảnh trên, niềm tin tôn giáo của tôi bị vỡ vụn hoàn toàn. Tôi
cũng được nghe nhiều người nói có những kẻ xin đi tu để trốn quân dịch
hoặc cộng sản nằm vùng đội lốt các nhà tu v.v... nhưng lúc ấy tôi chỉ
nghĩ : " Tai nghe không bằng mắt thấy" và hôm nay tôi đã được tận mục sở
thị rành rành. Chúng tôi tìm đến chùa tỉnh hội thành phố Đà Nẵng vì
chỉ có nơi đây mới dung chứa thập phương bá tánh mà không đòi hỏi điều
kiện gì. Trước sân chùa, một đống cao bằng nóc nhà súng ống đủ loại và
cơ man là người, cả dân chạy giặc và lính các binh chủng. Khó khăn lắm
chúng tôi mới tìm được chổ cho 18 anh em nằm nghỉ. Khi đã yên vị, tôi
nghe đói bụng nên tìm xuống bếp nhà chùa để kiếm thức gì đó bỏ bụng,
nhưng đã có hàng đống người xếp hàng dài chờ đợi trước đó rồi, chẳng có
cách nào khác tôi cũng phải xếp hàng theo. Nhìn những người vừa lãnh
phần ăn xong quay ra, tôi nhìn trên tay họ chỉ có chén cháo lỏng nấu với
ít cà-rốt băm nhuyễn. Dù rất thất vọng nhưng biết sao được khi số lượng
người quá đông so với khả năng cung cấp của nhà chùa. Cũng phải mất 15
phút xếp hàng, tôi mới được phát cho một chén cháo, chẳng bỏ bèn gì so
với một thằng thanh niên 18 tuổi, cao 175cm và nặng 60kg đang tuổi ăn,
tuổi lớn như tôi. Tôi tính ăn xong chén cháo sẽ quay lại vài lần đến khi
no bụng thì thôi, nhưng nhìn hàng người xếp hàng dài dằng dặc đến vài
chục mét thế kia, tôi bỏ luôn ý định đó. Trong thời gian lưu lại chùa,
chúng tôi nghe những nguồn tin do người dân loan truyền là cộng sản đã
chiếm được chổ nầy, chổ khác và chúng tiến đến đâu lính quốc gia lại
buông súng đầu hàng đến đó. Không biết những người khác nghĩ sao chứ cá
nhân tôi rất thất vọng khi nghe những tin tức như thế. Tôi tự nguyện gia
nhập quân đội khi mới 17 tuổi sau khi xem một phim tài liệu về cuộc
pháo kích của vc vào một trường học ở Cai Lậy giết chết nhiều trẻ em.
Tôi đã nằng nặc xin nghỉ học để đăng lính dù mẹ tôi khóc hết nước mắt
năn nỉ tôi hoãn lại ý định nhập ngũ mà chờ ba tôi về- lúc đó, ba tôi
cùng đơn vị đại đội 2 trinh sát thuộc Lữ đoàn 2 nhảy dù, đang đóng quân ở
Non Nước Đà Nẵng, nhưng tôi là loại người không dễ dàng từ bỏ mục đích
của mình. Thế là tôi lên đường với hành trang mang theo là một trái tim
tan nát của mẹ mình (cầu xin mẹ ở trên cao tha thứ cho sự nông nổi, bồng
bột thời trẻ của con). Nhưng, tôi lại nghe cộng sản sẽ lùa dân và nhất
là lính quốc gia đi trước làm bia đỡ đạn trong trường hợp quân đội VNCH
phản công để chận bước tiến của chúng. Nói chung, là dù thế này hay thế
kia thì những tin tức ấy không lấy gì làm vui vẻ. Và, như để xác chứng
cho việc thất thủ của quân đội VNCH, số người đổ vào chùa tỉnh hội mỗi
lúc một đông hơn làm không gian xung quanh càng trở nên chật chột, ồn
náo, nhếch nhác hơn. "Không thể ở lại đây được nữa rồi vì cứ đà nầy kéo
dài thì sẽ đến lúc nào đó nhà chùa cũng sẽ hết lương thực, lúc đó tai
họa sẽ ập đến khi hàng ngàn con người bị đói sẽ sẵn sàng làm bất cứ
chuyện gì để có cái ăn" Kinh hoàng trước suy nghĩ đó, tôi nhìn quanh như
tìm người chia sẻ thì bắt gặp ánh mắt của người lính TQLC cùng nhóm với
chúng tôi ở Đồng Đen xuống, đang nhìn mình. Chúng tôi trạc tuổi nhau
nên cũng dễ hoà đồng. Anh ta hỏi tôi:
- Ông đói bụng hôn?
Tôi gật đầu. Anh ta hạ thấp giọng xuống:
- Tui với ông ra chợ kiếm gì ăn đi.
- Tui không có tiền.
- Tui có. Nhưng tui nghe lính mấy ông đi lãnh tiền tử trước mà.
Không biết giải thích thế nào, tôi nổ luôn:
-
Ừ! Nhưng tụi mình không đem theo làm gì, trong rừng cũng có xài gì được
đâu, với lại tụi tui đi chỉ có 10 ngày là thay toán khác rồi, đem theo
chỉ nặng thêm.
- Vậy thì ông đi với tui.
Thế là 2 đứa chúng tôi
lẵng lặng đi ra khỏi chùa tìm đường vào chợ. Trên đường đi, anh chàng
TQLC không vào các hàng quán ăn mà tìm mua 1 trái tim heo tươi, 1 miếng
gan và 3 ổ bánh mì. Thấy vậy tôi hỏi:
- Ông mua thứ nầy rồi làm sao nấu? Trong chùa đâu có cho đem đồ mặn vô.
- Thì mình ra ngoài nhà dân mượn nồi nấu chứ đâu đem vô chùa. Tui thèm món nầy quá. Ăn cho bổ tim.
Nói
xong, anh ta cười cười ra vẻ hài lòng khi thỏa mãn ước muốn hết sức bé
nhỏ, bình dân của mình. Sau khi 2 đứa ăn xong, anh ta rủ tôi đi về Sài
Gòn vì anh ta cũng có suy nghĩ giống như tôi là không thể ở lại chùa
được nữa.
- Cũng được, nhưng để hỏi mấy ông kia đã, có gì rủ mấy ổng đi luôn.
Nhưng, anh ta khoát tay, nói:
-
Mấy ổng giờ cũng không biết giải quyết thế nào đâu. Nếu mấy ổng không
chịu đi thì sao? Ở lại nữa hả? Với lại, đi một đám đông quá sẽ rất khó
khi dọc đường ghé nhà dân xin ăn lắm.
Với lập luận nầy, anh chàng
TQLC đã thuyết phục được tôi hoàn toàn. Thế là 2 đứa tôi lên đường theo
quốc lộ 1 trực chỉ Sài Gòn, không kịp từ biệt những đồng đội còn nán
lại. Tôi đã không biết được rằng đó là cuộc chia ly kéo dài đằng đẵng mà
những 41 năm sau, tôi mới có dịp gặp lại những chiến hữu của đơn vị
xưa- Đoàn 72 Hắc Long/Sở công tác/Nha kỹ thuật.
Dọc đường, chúng tôi
thấy họa hoằn lắm mới có trường hợp người dân còn ở lại nhà mà phần lớn
trong số họ đã bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn để lo chạy giặc. Từng tốp
người gồng gánh lỉnh kỉnh hoặc chất đồ đạc lên xe đạp đẩy đi. Những tốp
lính hay đã từng là lính thì đúng hơn, người thì còn mặc nguyên bộ quân
phục, nhưng đã xé phù hiệu, người thì lộn trái áo lại, người mặc áo
thun, người lại ở trần...bước xăng xái trên đường, họ cười nói râm ran
như vui mừng vì chiến tranh đã lùi xa, không còn sợ chết trẻ hoặc bị tàn
phế vì thương tật nữa. Lại có những phần tử mà tôi biết là vừa được
thoát khỏi nhà tù cũng rảo bước trên đường, thật sự mà nói tôi không tin
tưởng những người nầy lắm. Ai mà biết được họ sẽ hành động thế nào nếu
gặp một người phụ nữ ưa nhìn hoặc một vật gì đó mà họ thích? Bây giờ là
giai đoạn tranh tối, tranh sáng, hay nói cách khác là giai đoạn vô chính
phủ, ai muốn làm gì thì làm mà không sợ bị luật pháp chế tài.
Trên
đường xuôi Nam, chúng tôi nhiều lần ghé vào những ngôi nhà vắng chủ để
tìm thức ăn còn sót lại và cũng để kiếm cho mình bộ quần áo dân sự thay
cho bộ đồ lính. Nhưng, có thể chủ nhà đã mang đi hết hoặc những người đi
trước đã vét sạch những gì còn lại nên mãi rất lâu chúng tôi mới đổi
được bộ quần áo trên người. Anh chàng TQLC thì may mắn hơn tôi vì tầm
vóc của anh ta chừng hơn 1,6m khá phổ biến với người Việt Nam, nên bộ
quần áo anh ta tìm được khá vừa vặn với khổ người. Riêng tôi thì "đen"
hơn khi chỉ kiếm được một cái quần dài quá đầu gối một chút và cái áo
rộng thùng thình đã có vài miếng vá. Chúng tôi cũng tìm được duy nhất
một đôi dép mỏng đến mức không thể mỏng hơn, thế là chúng tôi luân phiên
nhau mang cho đỡ nóng và rát chân khi đi trên đường nhựa.
Những
chiếc cầu nằm dọc theo quốc lộ 1 từ Quảng Nam đến Quảng Tín đã bị lính
VNCH đánh sập để làm chậm bước tiến của cộng sản. Chúng tôi phải leo qua
để sang bên kia bờ nhằm tiếp tục cuộc hành trình. May là những con sông
ở miền Trung không rộng nên việc đi chuyển cũng không đòi hỏi nhiều
công sức. Chúng tôi đi mãi đến khi gặp được ngôi nhà nào có người ở thì
vào xin cơm ăn. Những người dân miền Trung, theo tôi được biết qua những
câu hát,bài vè như: đất cày lên sõi đá, chó ăn đá gà ăn muối, mùa đông
thiếu áo hè về thiếu ăn v.v...lại khá hào phóng khi chia sẻ cho chúng
tôi những bữa ăn chỉ có cơm độn khoai với mắm cái của họ. Có lẽ chúng
tôi may mắn vào lúc họ vừa dùng cơm xong nên mới có cái mà ăn, chứ người
đi trên đường nhiều không đếm xuể, không ai có thể đủ sức giúp đỡ mọi
người. Sau khi ăn xong, chúng tôi lại tiếp tục đi, đi mãi đến quá nữa
đêm thì 2 chân tôi đau nhức vô cùng không thể nào lê bước được nữa.
Chúng tôi vào một ngôi nhà vắng chủ để nghỉ, ngủ cho lại sức nhằm sẽ
tiếp tục cuộc hành trình vào ngày mai. Nhưng đêm đó, đôi chân tôi nó
nhức buốt đến mức tôi không thể thẳng ra hay co lại được. Tôi nằm lăn
hết bên nầy qua bên kia cho đỡ nhức mà nghe ngoài đường người ta vẫn đi
lại nhộn nhịp. Rồi tôi cũng ru mình vào giấc ngủ chập chờn, mãi đến khi
mặt trời đã lên cao mới gượng ngồi dậy được. Ngán ngẫm khi nghĩ tới con
đường về Sài Gòn dài thăm thẵm, trong khi đôi chân như muốn rớt ra
ngoài, nhưng nếu không cố gắng đi thì không biết bao giờ mới về nhà, về
đơn vị nên tôi rủ anh bạn TQLC tiếp tục lên đường. Nhưng, lần nầy anh ta
lắc đầu nói không muốn đi nữa. Tôi hỏi tại sao thì anh chỉ trả lời ngắn
gọn:
- Ông đi trước đi, tui sẽ đi sau.
Tôi ngần ngừ cũng muốn ở
lại nghỉ cho khỏe hẳn đôi chân rồi đi cũng không muộn, nhưng thấy anh
bạn TQLC có vẻ muốn dấu điều gì đó nên tôi từ biệt anh rồi tiếp tục lên
đường dù chỉ một mình. Lần nầy, có thể không có bạn đồng hành và đôi
chân rất đau nhức nên tốc độ đi của tôi giảm nhiều so với hôm qua, dù
vậy tôi vẫn cố gắng đi, đến trưa thì tới một nơi gọi là Châu-Ổ thuộc
tỉnh Quảng-Ngãi....
12/15/2016
2 thân cây dài được bắc ngang qua quốc lộ 1 làm thành một cái chốt chận
để kiểm tra tất cả những người qua lại. Cũng giống như ở cái làng Hoà
Vang, Hoà Cầm gì đó, tôi cùng rất đông người khác không thể đi qua được
cái chốt nầy vì không có giấy tờ gì cả. Chúng tôi bị lùa vào một cái
trường tạm thời ngưng việc dạy học để dùng làm nơi tập trung số tàn
quân. Có mấy trăm người tuổi từ 18 đến ngoài 40 đã được giữ lại đây
trước khi tôi vào. Họ đứng ngồi lộn xộn và xầm xì to nhỏ về đơn vị, về
hoàn cảnh của nhau. Trên gương mặt mọi người đều hiện rỏ sự mệt mỏi,
chán chường và lo âu. Tôi cũng tìm một chổ rồi ngồi bệt xuống nghỉ chân.
Tôi đưa mắt nhìn quanh xem có ai là người quen không? Những đồng đội
cùng đơn vị chắc chắn là không rồi, nhưng những đứa bạn cùng trại gia
binh Lữ đoàn 2 nhảy dù, hoặc mấy đứa bạn cùng đại đội 847 lúc thụ huấn
tại Đồng Đế ra trường rồi đóng quân ngoài miền Trung nầy cũng có mấy
mống, nhưng tôi không thấy ai trong số họ. Tôi vừa thất vọng lại vừa
mừng và mong là bọn nó đừng bị rơi vào hoàn cảnh bi đát như tôi. Đến
trưa, một gã cán binh cộng sản được hộ tống bởi mấy tên du kích cầm súng
AK47 đến kêu mọi người im lặng để nghe phổ biến vài vấn đề. Gã cũng
huyên thuyên về cái gọi là giặc Mỹ xâm lược, về bọn tay sai ngụy quân,
ngụy quyền, về cách mạng, về giải phóng gì gì đó mà không biết có ai
thèm lắng nghe không? Sau đó, gã nhấn mạnh là chúng tôi sẽ được đưa đi
học tập cải tạo để thấm nhuần đường lối, chủ trương của đảng và đợt học
tập như thế chỉ có 2-3 ngày, sau đó sẽ có xe đưa chúng tôi về tận nhà.
Cuối cùng gã nói chúng tôi sẽ được phát gạo để nấu cơm ăn và nên nấu cơm
nhiều để mang theo trên đường đi đến nơi học tập cải tạo. Nghe xong tôi
đã thoáng nghi ngờ:" Đang còn chiến tranh làm sao đưa về nhà được và
nếu chỉ học tập vài ngày thì tổ chức ở đây cũng được chứ sao lại phải
đưa đi đâu nữa?". Đó là nỗi hoài nghi đầu tiên của tôi trong quá trình
khám phá và nhận chân được cái bản chất của cộng sản, đó là: Dối trá, đê
tiện và tàn bạo. Có lác đác vài tiếng vỗ tay mang tính xã giao khi gã
cán binh kia chấm dứt bài nói chuyện. Sau đó, chúng tôi được phát mỗi
người 3-4 lon gạo gì đó đựng trong những cái bao thường được quân đội
dùng đựng đất, cát để làm công sự chiến đấu. Chúng tôi phải tự nấu cơm
sau khi được chúng đưa cho mấy cái chảo lớn và một xô mắm cái (loại mắm
làm từ một loại cá biển cở 1-2 ngón tay rất phổ biến ở miền Trung,
thoạt nhìn cũng giống như mắm sặc miền Nam, nhưng độ mặn thì...kinh
khủng khiếp). Một lúc sau nữa, tên cán binh quay lại hỏi trong chúng tôi
có ai làm cảnh sát, an ninh, mật thám gì đó thì đứng ra đi theo hắn. Có
vài người gượng gạo tách ra theo tên cán binh. Cũng giống trường hợp
ông sĩ quan cấp tá mặc thường phục ở gần ngã 3 Huế, tôi nghĩ sự sống của
những người nầy như chỉ mành treo chuông. Đến khoảng xế chiều, chúng
kêu chúng tôi sắp thành 2 hàng dọc rồi đưa đi. Cách khoảng 10m thì có
một thằng dân tộc thiểu số mang AK47 đi phía ngoài canh chừng. Chúng dẫn
chúng tôi đi về hướng rừng núi Trường Sơn trùng điệp và tôi biết rằng
đây sẽ là một chuyến đi khó có ngày về chứ không phải chỉ có 2-3 ngày
như chúng đã nói lúc trưa. Khi đi ngang qua một miếng vườn nọ, một anh
nông dân cũng khoảng gần 40 tuổi, chống cuốc đứng nhìn chúng tôi đi
ngang qua và nói với theo:" Trước tụi bây ngon lắm mà, giờ sao không
giỏi vào bắt gà, bắt vịt nữa đi?" Nghe vậy, một anh trong hàng lên
tiếng:" Bộ ông già bị mất cái gì hả? Ai bắt gì thì ông già nói thẳng với
người đó chứ ông già nói lung tung đụng chạm nghe". Lập tức, thằng
thượng cộng đi nhanh tới anh chàng vừa nói câu đó, trở báng súng AK đập
cho anh ta vài phát liền. Từ lúc đó, chúng tôi chỉ biết câm lặng đi
theo. Đến sẫm tối, chúng cho chúng tôi nghỉ chân ven một cái làng nào
đó. Vài người trong làng ra chửi chúng tôi, đúng hơn là chửi lính Mỹ tàn
ác đã gây ra vụ thảm sát Mỹ Lai gì đó mà lính quốc gia là bọn rước voi
về giày mả tổ v.v...Nghe vậy, ý nghĩ lợi dụng đêm tối bỏ trốn của tôi
tan biến hoàn toàn. Lý do thứ nhất là tôi không biết mình đang ở đâu? Kế
đến, mấy nơi chúng tôi vừa đi qua có vẻ thù địch với VNCH mà điều nầy
là bất lợi vô cùng vì nếu không được sự giúp đở của người dân, tôi không
thể trốn thoát được và sau hết, tôi không biết từ đây về Sài Gòn sẽ còn
bao nhiêu chốt chận như ở Châu-Ổ nầy nữa! Chừng nữa giờ sau, chúng tôi
lại lên đường. Dù trời khá tối, nhưng vẫn thấy được đường đi. Tôi đoán
là mình được đưa lên núi vì mặt đất cứ cao dần lên. Khoảng nữa đêm, đến
một nơi có địa hình tương đối bằng phẳng, chúng tôi được dừng lại để
ngủ. Những ai mang theo ba-lô thì tương đối có được những vật dụng cần
thiết để bảo vệ bản thân trước sự khắc nghiệt của thời tiết miền Trung.
Riêng tôi thì chỉ có được mỗi tấm áo phong phanh tìm được trên đường đi,
không đủ để chống lại cái lạnh như cắt da, cắt thịt của đêm vùng cao
nên tôi chỉ còn biết ngồi bó gối mà run lập cập. Sau, có ai đó gom những
nhánh cây khô đốt lên để sưởi. Nhiều người thấy vậy cũng nhặt nhạnh
thêm, mỗi người vài nhánh chất vào làm thành đống lửa lớn cho nhiều
người cùng sưởi. Hoá ra không phải chỉ có mỗi mình tôi bị lạnh. Nhưng,
cái lạnh miền Trung thật đáng sợ đến nỗi sưởi phía nào thì phía đó ấm
còn những nơi khác vẫn thấy lạnh. Thế là tôi lại loay hoay xoay tròn để
giữ cơ thể không bị lạnh. Rồi tôi cũng thiếp đi vì quá mệt mỏi.
Sáng hôm sau, chúng tôi lại lên đường và tôi không còn hoài nghi nữa
mà chắc chắn là mình đang đi ngược lên núi. Qua bao đèo cao, vực sâu,
chúng tôi đến trước một cái trại dựng cạnh một con suối. Gọi là trại cho
sang chứ thật ra chỉ là những dãy nhà tranh, xung quanh là lớp hàng rào
ngăn cách được dựng sơ sài bằng mấy cây rừng. Bên trong thấp thoáng
những người mà tôi biết họ cũng là tù binh như chúng tôi, đang lui cui
làm gì đó mà vì ở xa nên tôi không thấy rõ. Lúc mấy tên cán binh cộng
sản vào trại để nói chuyện về việc có tiếp nhận chúng tôi vào trại không
thì bên ngoài suối, chúng tôi tranh thủ uống nước, rửa ráy tay chân.
Nước mát lạnh làm chúng tôi thấy khỏe lên đôi chút. Lát sau, mấy tên cán
binh quay ra kêu chúng tôi đi tiếp vào sâu hơn vì trong trại đã chứa
hàng ngàn người rồi nên không thể nhận thêm nữa. Chúng tôi lại lên đường
và đã đi qua vài cái trại tù binh như thế. Cuối cùng, khi đến một con
suối khác, tên cán binh có chức vụ cao nhất-sau nầy là giám đốc trại tù
binh F7D của chúng tôi, ra lệnh dừng lại lập trại mới. Chúng tôi được
chia thành từng tổ 10 người, có tổ trưởng, tổ phó để nhận và phổ biến
công việc từng ngày cho anh em. Công việc đầu tiên là mỗi tổ được phát 2
cái rựa và 2 cây cuốc và phải bắt tay ngay vào việc chặt cây, cắt và
đánh tranh để dựng trại. Trước giờ tôi chỉ đi học rồi hứng chí lên tình
nguyện nhập ngũ luôn nên mấy công việc nhà nông nầy tôi hoàn toàn mù
tịt. Với lại, sống ở Sài Gòn thì đào đâu ra mấy cái việc nầy mà thật ra
tôi không hứng thú với việc trở thành một anh nông dân lắm. Nhưng không
lẽ anh em làm mà mình không động tay, động chân gì thì cũng khó coi nên
tôi lò mò đến chổ để mấy cái chảo, nơi có vài anh đang hì hục đào lấy
đất đắp thành bếp để nấu ăn cho cả trại. Khi mấy anh nầy nghỉ tay thì
tôi cầm lấy dụng cụ rồi xăng xái đào, đắp loạn xị lên. Với sức vóc to
cao, làm việc xốc vác, tôi nhanh chóng chiếm được cảm tình của mấy anh
em tổ "anh nuôi" nầy, nhất là anh tổ trưởng tên Thạch, người Quảng-Ngãi,
là người lớn tuổi nhất trong tổ và tổ phó Kông-Sao-Phông, người Hoa ở
Chợ-Lớn. Lúc nầy, tổ "anh nuôi" kể cả tôi là được 6 người, chúng tôi
chia làm 2 tốp, tốp thì vẫn tiếp tục đào đất đắp bếp và làm chổ ngủ cho
anh em, tốp thì lo lãnh gạo nấu cơm. Cả trại có gần 800 người,mỗi người
được 1 lon gạo. Cơm nấu xong, chúng tôi xúc đổ ra một tấm nylon lớn được
trãi dưới đất rồi múc ra mỗi phần 3 chén vắt thành cục để xếp thành
hàng dài. Tổ trưởng và tổ phó sẽ đến nhận cơm cho tổ của mình. Thức ăn
thì chỉ có một ký mắm cái với một ký muối hột và một xô nước múc từ suối
lên nấu chung để làm thành một thứ nước chấm bỏ trong cái thau nhôm, ai
muốn lấy bao nhiêu tuỳ ý.
Ngày hôm đó, trại chúng tôi cũng cất được
hai cái lán dài với 2 hàng giường ngủ được làm bằng tre đập dập trông
cũng tươm tất ra phết, đủ để cho gần 800 người có chổ ngủ. Tuy nhiên,
phần mái thì còn dở dang, nhưng có vẫn hơn là nằm dưới đất làm mồi cho
bọn côn trùng, nhất là bọn vắt gớm ghiếc. Xong việc ở tổ "anh nuôi" tôi
quay về tổ của mình, nhưng tôi không nhớ được những ai và người nào là
tổ trưởng nên tôi trở lại tổ "anh nuôi" để ngủ. Anh tổ trưởng Thạch hứa
sẽ xin nhận tôi vào tổ "anh nuôi". Đêm đó, chúng tôi cho những khúc gỗ
lớn vào bếp để nấu nước uống chứ không cho mọi người uống nước sống nữa
và cũng để giữ lửa cho buổi nấu cơm kế tiếp. Vì vậy, trong bếp lúc nào
cũng ấm áp và ít muỗi hơn bên ngoài và cũng nhờ vậy, tôi không còn bị
lạnh nữa, giấc ngủ cũng ít trằn trọc hơn.
Vài ngày sau, khi
việc cất trại đã tương đối hoàn chỉnh, gã giám đốc trại- đó là một người
có tầm vóc thấp bé, gương mặt xương xẩu, khắc khổ và đặc biệt là khi
nói hoặc cười, 2 hàm răng vẫn cắn chặt vào nhau. Dân gian thường nói
rằng những loại người như thế rất hiễm ác và thực tế diễn ra sau nầy đã
chứng minh những nhận xét trên là chính xác-đã tập hợp chúng tôi lại để
phổ biến 2 nội dung: thứ nhất là chúng tôi có vàng bạc, tư trang, tài
sản gì có giá trị thì đưa cho Ban giám đốc trại cất giữ hộ để ngừa tình
trạng trộm cắp của nhau. Gã cam đoan sẽ làm biên nhận, trong đó ghi cụ
thể từng món đồ và tên người gửi để sau nầy ra trại nhận lại. Tôi thuộc
thành phần...vô sản nên không có gì để gửi mà phải suy nghĩ. Thứ hai là
chúng tôi phải viết bản kê khai, trong đó ghi rõ tên, tuổi, đơn vị, cấp
bậc, chức vụ và nhất là những thành tích đã đạt được trong thời gian tại
ngũ như nhận được những huân, huy chương gì, trong trường hợp nào
v.v...Gã nhấn mạnh nếu chúng tôi khai báo trung thực sẽ ưu tiên xét cho
được phóng thích sớm. Tôi không tin miệng lưỡi bọn cộng sản vì mới vài
ngày trước tại trường học ở Châu-Ổ, chúng đã lừa chúng tôi là đi học tập
cải tạo chỉ có 2-3 ngày, nhưng bây giờ đã gần tuần lễ trôi qua rồi. Sau
đó, chúng phát cho chúng tôi mỗi người một tờ giấy để kê khai. Tôi viết
rất đơn giản vì thực sự, tôi mới từ quân trường ra và đây là chuyến
hành quân xâm nhập đầu tiên của tôi nên chẳng có gì để viết. Ban đầu tôi
tính ghi đại mình là lính trong một đơn vị bộ binh nào đó, nhưng tôi
không biết những đơn vị bộ binh nào đóng quân ngoài miền Trung nầy, ghi
lung tung không đúng có khi lại rước họa vào thân, thế là mình như thế
nào thì ghi như thế ấy cho xong. Và có một sự may mắn là không một ai
biết danh xưng Nha Kỹ Thuật mà tôi viết trong bản khai là loại lính gì.
Nhiều người có thể nghe và kể vanh vách về biệt kích, về Lôi Hổ, về bóng
ma biên giới với sự nễ phục mà không hề biết gì về Nha Kỹ Thuật. Họ
nghĩ tôi chỉ là lính sửa chữa, lắp ráp máy móc gì đó. Thế càng tốt. Tôi
thầm cám ơn vị chỉ huy nào đó đã nghĩ ra và đặt cho lực lượng một cái
tên hết sức dễ thương đến vậy.
Ít ngày sau khi chúng tôi nộp bản tự
khai, gã giám đốc lại tổ chức họp để thông báo kết quả, qua đó gã hết
sức khen ngợi một anh Biệt Động quân trong trại, đã trung thực khai báo
việc bắn cháy một chiếc T54, được thưởng 100 ngàn đồng cùng 15 ngày
phép. Anh nầy sẽ được cứu xét cho về nhà sớm. Gã kêu anh ra trình diện
cho mọi người biết mặt. Đó là một anh chàng khoảng ngoài 20 tuổi, cao
tầm 1,7m, khá đẹp trai dù trải qua nhiều cực nhọc của đời tù binh vẫn
toát lên nét hào hoa, tài tử. ( Đúng là chỉ vài ngày sau, anh ta được
thoát khỏi kiếp tù binh, nhưng không phải bằng giấy phóng thích mà bằng 2
viên đạn vào người với lý do nữa đêm lén ra rẫy trộm khoai mì của đồng
bào dân tộc bị phát hiện, bắn chết. Đó là cái chết đầu tiên của trại
F7D). Cũng qua bản tự khai, gã cho biết có ý nghi ngờ nhiều người đã
gian dối khi đi lính cầm súng chiến đấu đã lâu mà không có thành tích
gì, không tham gia trận đánh nào và cũng không bắn được tên vc nào mà
chỉ là binh nhất, binh nhì...là phi lý. Gã sẽ cho viết lại bản tự khai
và ai khai không khớp với bản đầu tiên, chứng tỏ người đó khai man sẽ bị
trừng phạt nghiêm khắc.
Sát cạnh hàng rào trại tù binh của
chúng tôi là khu vực sinh hoạt riêng của khoảng một tiểu đội cộng sản có
nhiệm vụ canh giữ chúng tôi, trong đó có 2 con " bộ đội cái" và hơn
phân nữa trong số đó là thượng cộng. Chúng nấu nướng, ăn uống, ngủ nghỉ
riêng và ngoại trừ tên giám đốc và tên chính trị viên thi thoảng bước
qua hàng rào để thông báo gì đó, còn lại thì cứ im lặng như thóc và
không hề có ý định muốn tiếp xúc với chúng tôi. Ngược lại, khi chúng tôi
muốn ra ngoài hàng rào để làm gì đó, ngang qua chốt gác của chúng, anh
em tù binh phải xin phép bọn gác và chỉ được đứng từ xa, hô lớn:" Báo
cáo cán bộ, xin cho tôi được......" khi nào thằng gác đồng ý mới được đi
ra ngoài.
Không thể không nói đến một việc nữa cũng làm tổn
hại đến sức khỏe của anh em tù binh rất nhiều, đó là vấn đề bài tiết.
Chúng tôi phải đào một cái hố sâu khoảng 3m, ngang chừng 4m, rồi bắc 2-3
cây gỗ ngang qua để làm chổ ngồi. Thời gian đầu thì không có gì đáng
nói, nhưng về sau khi phân nhiều lên phát sinh hôi thối và ruồi nhặng vô
số, chỉ đến gần thôi đã muốn ngạt thở và rùng mình khi thấy đám ruồi
nhặng bay đen kịt kêu vù vù và cứ bu vào người ngồi trên, còn phía dưới
thì dòi bọ lúc nhúc và hơi nóng bốc lên hừng hực cay xé mắt. Sau, có số
anh em không chịu nỗi bầu không khí nơi xú uế nầy nên xin ra suối để
giải quyết, nhưng tên chính trị viên nghiêm khắc không cho với lý do con
suối nầy được nhiều buôn làng đồng bào dân tộc và các trại tù binh khác
phía dưới sử dụng nấu nướng, ăn uống, tắm giặt...nên phải giữ vệ sinh
chung, nếu bài tiết ngoài suối là gây ô nhiễm, có thể lây truyền dịch
bệnh cho mọi người và ai cố tình vi phạm sẽ bị xử lý với tội danh đầu
độc cộng đồng. Vì vậy, dù rất sợ mỗi khi đi vệ sinh, nhưng cái tội danh
kia còn đáng sợ hơn bội phần nên anh em chỉ biết nghiến răng mà chịu
đựng và hậu quả là phần lớn anh em đều bị lở loét. Riêng tổ "anh nuôi"
của tôi thì kết thúc ngày làm việc muộn hơn nên chúng tôi tắm giặt lúc
trời cũng khá tối. Mỗi lần tắm là chúng tôi tranh thủ giải quyết luôn
nỗi buồn. Ở tổ "anh nuôi" thì không lo bị đói, nhưng chúng tôi phải đón
nhận một cực hình khác, đó là lúc nào cũng chỉ có cơm với nước mắm cái,
đến nỗi khi nghe mùi mắm cái là chúng tôi cứ như mấy bà bị ốm nghén, chỉ
muốn nôn ói. Ngược lại, mấy anh em tổ khác ra ngoài lao động, dù chỉ
mỗi cục cơm vắt cho bữa ăn rất thiếu thốn, nhất là với số tù binh thanh
niên, nhưng họ có thể kiếm thêm rau rừng, lá các loại cây ăn được, hoặc
bắt rắn rít, cóc nhái, chuột bọ gì đó để ăn thêm cho đỡ đói. Nhưng, mãi
rồi xung quanh cũng không còn gì để mà hái, mà bắt, mà lượm nữa. Đói!
Thật khủng khiếp khi ăn không đủ no, thiếu cả lượng lẫn chất trong khi
phải lao động nặng nhọc như cuốc đất trồng khoai mì, cõng gạo từ kho nầy
sang kho khác phục vụ hậu cần cho cộng sản thì bệnh tật là hệ quả tất
yếu. Tôi đã chứng kiến một anh bị bệnh thủng, ban đầu thấy anh mập lên
nên tôi nghĩ rằng anh "chịu" cơm cộng sản, nhưng sau đó, da thịt anh bắt
đầu nứt nẻ, máu và nước vàng ri rỉ chảy ra từ những khe nứt ấy, sau đó
xuất hiện dòi. Lúc ấy, anh không còn đi đứng gì được nữa mà chỉ ngồi một
chổ dùng cọng cỏ khều mấy con dòi cho rơi ra ngoài. Ít sau anh chết. Đó
là cái chết thứ 2 ở trại F7D. Về sau, lâu lâu chúng tôi lại nghe thêm
nhiều cái chết nữa. Nào là đi ăn cắp lương thực của đồng bào dân tộc bị
giết chết, nào là trốn trại bị bắn chết v.v...Là người lính thì chuyện
sống, chết là bình thường, nhưng chết nhục nhã, đau khổ và vô ích như
những người tù binh chúng tôi thì thật là xót xa. Người thân của họ sẽ
không bao giờ biết được họ đã vùi thân ở nơi thâm sơn cùng cốc nầy để
đến viếng, thắp cho họ nén nhang an ủi.....
12/19/2016
Có lần, tổ "anh nuôi" chúng tôi được giao nhiệm vụ đi theo để lo cơm
nước cho số anh em trong trại cải tạo phải đi chuyển gạo từ kho nầy sang
kho khác phục vụ cho các cánh quân cộng sản đang rầm rộ kéo vào đánh
chiếm miền Nam. Việc nầy trước đây thuộc về các lực lượng dân công hỏa
tuyến hay thanh niên xung phong đảm nhận, nay chúng bắt anh em tù binh
gánh vác. Thật là một ý đồ hết sức thâm độc khi dùng người của VNCH phục
vụ cho chúng để đánh người của VNCH. Tổ "anh nuôi" có 6 người được chia
làm 2, phân nữa ở lại trại, phân nữa theo anh em chuyển gạo. Anh tổ
trưởng Thạch chọn tôi và người nữa đi cùng. Chúng tôi chặt một cái cây
dài rồi treo chảo, nồi, xô đựng mắm cái, muối hột...cho lên vai gánh đi.
Còn anh em thì mỗi người tự mang theo 2 lon gạo cho một ngày đường và
tấm nylon đi mưa. Đến kho, mỗi người phải mang một bao gạo khoảng 50 kg
vận chuyển đến kho khác theo yêu cầu của bọn cộng sản. Xui xẻo là trên
đường cõng gạo đi thì trời đổ mưa, anh em lấy tấm nylon che gạo lại cho
khỏi bị ướt, nhưng đường rừng núi sình lầy trơn trượt, anh em đi lại rất
khó khăn, vất vả. Vì vậy, tốc độ di chuyển rất chậm, có người đi không
muốn nổi, phải dừng lại nghỉ mệt nhiều lần. Bọn thượng cộng thấy vậy
thay vì có hành động gì giúp đỡ hoặc thông cảm, lại to tiếng quát nạt và
có lúc chúng dùng báng súng đánh vào những người khốn khổ đang hết sức
mệt nhọc ấy. Những anh em khác vội tìm cách san sẻ mỗi người một ít để
bớt trọng lượng cho số anh em bị kiệt sức. Sau bữa cơm chiều, anh em
phản ứng với tên chính trị viên về thái độ bất nhân của bọn thượng cộng.
Lúc ấy, tên chính trị viên lên tiếng an ủi và biện bạch là do bất đồng
ngôn ngữ nên mới xảy ra chuyện đáng tiếc. Hắn nói mong anh em thông cảm
và sẽ uốn nắn lại bọn thượng cộng. Nhưng khi đêm đã khuya, lúc mọi người
đã ngủ thì tên chính trị viên kêu bọn thượng cộng ra một nơi cách xa
đám đông anh em tù binh đang ngủ mà hắn không để ý là lại khá gần tổ
"anh nuôi" của chúng tôi, hắn nói bằng tiếng kinh tức tiếng Việt với bọn
thượng cộng là nên cảnh giác vì anh em tù binh có thể sẽ có hành động
quyết liệt hơn với bọn chúng và hãy trừng trị những kẻ có ý đồ gây náo
loạn, tức là được quyền nổ súng tiêu diệt vài người để răn đe. Trời xui
đất khiến thế nào tôi lại thức dậy lúc bọn chúng nói chuyện và nghe
không sót một lời nào của tên chính trị viên. Tôi cố gắng nằm im không
nhúc nhích giả vờ như đang ngủ say dù đã cảm thấy lạnh và tê mỏi muốn
trở mình. Không biết mấy anh em khác của tổ "anh nuôi" có nghe được tên
chính trị viên nói không, hay họ cũng như tôi cố nằm im vì tôi không
thấy một ai nhúc nhích, cựa quậy gì cả. Khi bọn chúng đi rồi, tôi nằm
miên man suy nghĩ: Làm thế nào cho anh em biết điều nầy ngay vào sáng
mai để anh em cẩn thận, đề phòng. Mặt khác, tôi cũng nghĩ rằng chỉ mới
chưa đầy một tháng kể từ khi cải tạo đến nay, chúng tôi đã rất thấm thía
về cái gọi là ngục tù cộng sản nên nếu sau nầy có dịp trở lại chiến
đấu, hẳn mọi người sẽ hết lòng, hết dạ phục vụ cho đất nước, cho chính
thể VNCH. Nhưng, sáng hôm sau trời quang, mây tạnh, đường xá bớt lầy
lội, trơn trượt và chúng tôi cũng đã lấy đi cả trăm ký gạo để nấu 2 bữa
cơm cho anh em nên cũng làm giảm bớt phần nào khối lượng gạo. Nhờ thế,
anh em cõng cũng nhẹ bớt đi, vì vậy hôm đó đã không xảy ra chuyện gì
đáng tiếc.
Dù ở trong trại tù thiếu thốn đủ mọi phương
diện,nhưng chúng tôi vẫn biết được tình hình chiến sự bên ngoài vì bọn
cộng sản Bắc Việt cũng luôn theo dõi tin tức tiến quân của chúng qua
radio mà chúng gọi là cái đài. Cứ vài hôm, tên giám đốc hoặc tên chính
trị viên qua trại thông báo quân "giải phóng" đã tiến chiếm được đến
đâu. Tôi hết sức ngạc nhiên xen lẫn nỗi thất vọng trước sự rệu rã của
VNCH. Đâu rồi sự ngoan cường, anh dũng của những Thiên Thần mũ đỏ, những
tia chớp nhiệt đới, sét miền Tây v.v...và lòng tôi lại khấp khởi niềm
hy vọng khi nghe bọn chúng bị chận lại ở Bình-Tuy, Rừng-Lá sau khi nếm 2
trái CBU 558. Nhưng, sau đó niềm hy vọng chỉ loé lên tích tắc rồi tắt
ngấm hoàn toàn.
Đến gần ngày 30 tháng 4 định mệnh, tên giám đốc trại
đổi nhóm khác vào làm tổ "anh nuôi", còn chúng tôi ra ngoài lao động và
học chính trị. Thời gian học chính trị thì không phải đi lao động. Cả
trại luân phiên nhau, mỗi đợt sẽ có 3 tổ học, các tổ còn lại vẫn tiếp
tục đi chuyển gạo hay trồng khoai mì. Chúng bắt anh em tù binh học 7 bài
đại ý ca ngợi về công cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc của chúng và
lên án sự xâm lược của đế quốc Mỹ cũng như chính thể miền Nam VN là bù
nhìn, là tay sai, là rước voi, cưỡi voi gì gì đó v.v...mà tôi nghe buồn
ngủ chết được. Vì vậy, mỗi khi ra bãi đất trống dùng làm "lớp học" thì
tôi luôn chọn ngồi phía sau cùng để ít bị chú ý. Nhưng, phải thành thực
công nhận bọn cộng sản rất hiệu quả trong việc tuyên truyền. Chúng bắt
chúng tôi phải làm bản "thu hoạch" sau mỗi bài học để theo dõi xem có
người nào không chú ý hoặc không hiểu bài không? Không làm được bài ư?
Học tiếp đến khi nắm chắc thì thôi. Đó chính là điều khiến tôi hết sức
bực bội. Chúng xem bọn tôi như những học sinh tiểu học không bằng. Tôi
chua chát và phẫn nộ khi nghĩ rằng mình phải chiến đấu và chịu thua
truớc một đối thủ hết sức ấu trĩ, tầm thường đến thế.
Và cái ngày
đau thương ấy cũng đến. Lúc đang nghỉ trưa ngoài "lớp học", tên giám đốc
trại với gương mặt hớn hở cùng với 2 thằng thượng cộng mang súng AK,
nhanh nhẩu đi đến thông báo cho chúng tôi biết tin Dương Văn Minh được
thay làm Tổng Thống VNCH đã tuyên bố đầu hàng. Mọi người nhảy nhót, hò
reo, hoan hô vang dội rồi nắm tay nhau cùng hát bài "Nối vòng tay lớn"
của Trịnh Công Sơn. Riêng tôi nghe buốt nhói trong tim, một cái gì hết
sức thiêng liêng đã tan vỡ. Trong lúc anh em vui mừng thì tôi lặng lẽ
cúi đầu vào giữa 2 đầu gối để dấu những dòng nước mắt trào ra từ sâu
thẫm nỗi đau đớn của một lý tưởng đã trở thành ảo ảnh. Từ lúc đó, có lẽ
mọi người tràn trề hy vọng ngày đoàn tụ với gia đình sẽ không xa nên
hình như họ có vẻ xăng xái hơn hay họ đã dần thích nghi với công việc
và kiếp sống của tù binh mà nỗ lực hơn, tôi cũng không biết nữa? Còn tôi
thì ngày càng trầm lặng, càng rút sâu vào cái thế giới của mình nhiều
hơn. Đôi lúc tôi cũng cố gắng tự an ủi rằng mình chẳng là cái gì của xã
hội, chỉ là một thằng tân binh trong quân lực VNCH. Thôi thì, thua keo
nầy bày keo khác. Với tuổi đời hãy còn trẻ, tôi sẽ đi học trở lại, sẽ
gặp lại những bạn bè xưa, sẽ yêu một ai đó rồi sẽ lập gia đình...nhưng
tôi không thể huyễn hoặc, lừa dối mình khi đối mặt với sự thật về một
điều mà vì nó tôi đã bỏ ngang việc học hành, đành đoạn dứt áo ra đi để
người mẹ thân yêu của tôi phải đau đớn vì xa rời đứa con ương bướng,
nhưng là nguồn hy vọng của bà. Điều đó to tát hơn, vĩ đại hơn tất cả
những cái vụn vặt kia gộp lại!
Hồi mới ra lao động, tôi chơi khá
thân với một anh tên Khương, cũng đã ngoài 30 tuổi, quê Tây-Ninh, lính
bộ binh đóng quân và bị bắt tại Quảng-Ngãi. Anh thường cất tiếng hát vào
mỗi tối khi cả trại đã lên giường và chỉ hát độc nhất bài "Lạnh trọn
đêm mưa". Sau một ngày lao động mệt nhọc mà nghe "nhạc sống" thì cũng an
ủi hơn là nghe mấy thằng thượng cộng lảm nhảm mấy bài "Tiến về Sài Gòn"
hoặc "Xuống đường" chán còn hơn...mùi mắm cái. Anh có chất giọng rất
truyền cảm và hình như anh gửi tâm tư, tình cảm, nỗi niềm của mình vào
từng lời, từng chữ nên mỗi khi anh trỗi giọng lên thì cả trại im phăng
phắc để lắng nghe. Ban đầu anh hát nho nhỏ chỉ vài người nằm cạnh mới
nghe được vì tên chính trị viên đã cảnh báo chúng tôi không được chửi
thề đụ má, đụ mẹ...mà theo chúng thì đó là đồ mất dạy, thua cả súc vật
khi lăng nhục người đã dứt ruột đẻ ra mình (trong khi bọn chúng lại ném
vào mặt nhau những tiếng địt mẹ, tiên sư bố chúng mầy v.v...Sau nầy, anh
em tù binh chúng tôi cũng bắt chước thay tiếng chửi thề của miền Nam
bằng tiếng địa phương miền Bắc làm chúng cay cú lắm, nhưng không làm gì
anh em được). Kế đến là không được hát nhạc "vàng" của VNCH vì đó là thứ
nhạc ủy mị, rên rỉ không thể nào chấp nhận được dưới chế độ mới. Nhưng
trong cái tỉnh mịch của rừng già về đêm, tiếng hát của anh nghe da diết
làm sao, từng câu chữ trong bài hát như xoáy vào tận cùng nỗi khắc khoải
của mỗi con người. Hoá ra, âm nhạc thực thụ có sức mạnh ghê gớm đủ để
xoá nhoà mọi ranh giới, mọi định kiến, mọi bất hoà, xung đột, mọi giai
tầng, mọi tôn giáo, mọi chủng tộc...Không những chỉ anh em tù binh mới
im lặng nghe anh hát mà bọn cán binh cộng sản và nhất là bọn thượng
cộng-là những kẻ chỉ biết vâng lời một cách mù quáng, hình như đã quên
mất những giáo điều khô cứng được lập trình trong đầu óc chúng từ trước
đó nên chúng cũng lắng nghe mà không hề phản đối hay tìm cách ngăn cản.
Có lẽ, đây là lần đầu tiên chúng được nghe, hay đúng hơn là được đón
nhận những âm thanh, những vần điệu hay đến thế, bay bổng đến thế và
giống như những chú cừu non, chúng bắt đầu khám phá thế giới rộng lớn
xung quanh với đôi mắt ngơ ngác và hiếu kỳ. Thật bất ngờ và kỳ diệu hơn
là sau nầy, rất ít khi tôi nghe bọn thượng cộng ư ử mấy bài nhạc "đỏ"
của chúng nữa. Có lần tôi hỏi anh sao không hát bài nào khác cho tươi
tắn hơn, nhưng anh chỉ mỉm cười không trả lời, thấy vậy tôi cũng không
hỏi thêm....
12/22/2016
Lúc còn ở tổ "anh nuôi", tôi thường ở trần để làm những công việc trong
nhà bếp như xách nước, đong gạo, xới cơm v.v...nên chiếc áo cũ kiếm được
trên đường tìm về Sài Gòn rất ít khi tôi đụng đến, vì vậy, nó vẫn còn
gần như nguyên hình dạng lúc tôi mới lấy từ trong căn nhà trống của một
người dân nào đó. Sau nầy, khi chuyển qua tổ khác đi lao động bên
ngoài, tôi cũng như những anh em khác phải thường xuyên mặc áo để chống
nắng, chống côn trùng đốt, cắn và giữ ấm cho cơ thể về đêm..Vì chỉ có
mỗi bộ quần áo cũ mà lại mặc suốt hết ngày này qua ngày khác liên tục
hơn tháng ròng, chỉ khi nào dơ bẩn, hôi hám quá tôi mới phải đem giặt mà
cũng phải tranh thủ giặt xong đem vào nhà bếp hơ cho nhanh khô để có
mặc tiếp nên bộ quần áo của tôi nhanh chóng rách nát. Một số anh em khác
cũng lâm vào tình trạng như tôi. Chẳng còn cách nào khác, chúng tôi gặp
trực tiếp tên giám đốc trại F7D kiến nghị phát cho chúng tôi quần áo để
mặc vì chúng tôi lập luận rằng mình cần phải giữ cho cơ thể trong tình
trạng tốt nhất để có thể lao động với năng suất cao nhất và một phần
khác cũng quan trọng không kém là chúng tôi cũng rất e ngại khi trong
trại có mặt 2 phụ nữ trong đội ngũ cán binh Bắc Việt. Cũng may là kiến
nghị của chúng tôi được chúng chấp thuận và chúng tôi được phát mỗi
người một bộ quần áo loại dính liền màu trắng mà ta hay gọi là đồ người
nhái của VNCH. Bộ đồ nầy khá dầy nên mặc để ngủ thì thích hợp, nhưng khi
lao động thì quả là cực hình vì nó vô cùng bí bách, nóng nực. Tệ hại
nhất là lúc đi vệ sinh, chúng tôi phải lột tuột ra hết mới có thể giải
quyết được nhu cầu. Có anh em thấy việc mặc đồ như vậy khá bất tiện nên
xé làm 2 phần riêng biệt, áo không còn dính chung với quần, nhưng như
vậy lại vướng phải vấn đề khác là quần không có dây thắt lưng nên thường
bị tuột. Quả là họa vô đơn chí! Về sau, có anh lại nghĩ ra cách khắc
phục tình trạng quần tuột là xé phần lưng quần thành sợi rồi cột lại với
nhau, thế là có thể an tâm làm bất cứ việc gì mà không lo bị cái quần
phản phé.
Hồi còn ở nhà, mỗi bữa ăn của tôi phải đến một
lít gạo, tương đương 10 chén cơm, chưa kể thức ăn. Khi nhập ngũ, tôi
thường ăn một nón sắt đầy cơm mới no. Trong trại cải tạo, khẩu phần ăn
bị giảm xuống chỉ còn một phần ba, lại không có thức ăn gì bù đắp trong
khi phải lao động hết sức nhọc nhằn kéo dài nên tôi nhanh chóng bị suy
kiệt. Tôi thường bị mệt và mất sức rất nhanh khi làm bất kỳ công việc
gì. Lúc nào tôi cũng thấy đói. Đói đến hoa mắt, tay chân như không có
sức. Khi đi trồng khoai mì gần rẫy đồng bào dân tộc, tôi thường phải xin
họ khi thì củ khoai, lúc là trái bí rồi cứ thế nhai sống cho đỡ đói,
nhưng xin mãi cũng kỳ, với lại đồng bào cũng không dư dật gì mà cho mãi
nên tôi cũng len lén hái hoặc moi trộm dù biết rằng đó là hành vi xấu xa
và nếu bị phát hiện thì...Đã có những cái chết trước đó cảnh báo về
tình trạng anh em tù binh trộm cắp của đồng bào dân tộc, nhưng tôi đói
kinh khủng khiếp.
Vào một tối, tôi không thể nào dỗ giấc ngủ
được mà cứ lăn qua lộn lại mãi trong khi bụng thì liên tục sôi, tôi chợt
loé lên một suy nghĩ và đó là suy nghĩ vô cùng táo bạo mà tôi dám khẳng
định sẽ không có một người tù binh nào từ trước đó và đến sau nầy dám
bắt tay thực hiện. Đó là trộm gạo ngay chính trong nhà kho của bọn canh
giữ tù. Sở dĩ tôi nghĩ đ Nguyên nhân đưa tôi đến suy nghĩ nầy là
khi còn ở tổ "anh nuôi" tôi cũng thường qua kho của bọn chúng để nhận
gạo về nấu, nên tôi nắm được quy luật về giờ giấc và đường đi nước bước
trong kho gạo. Cửa rào và cửa kho gạo không có khoá mà chỉ đóng rồi cột
dây cho khỏi bung ra mà thôi.
Bọn cán binh thì sau bữa cơm chiều là
chúng rút về chổ ngủ, họa hoằn lắm mới xuống nhà bếp mà kho gạo đuợc
ngăn cách với nhà bếp bằng một tấm vách, chỉ khi nào cần đong gạo mới có
người, còn ngoài lúc đó thì không có ai. Vấn đề là làm sao từ ngoài sân
đi vào nhà kho mà không bị phát hiện? Sở dĩ tôi nghĩ việc trộm gạo
từ trong kho của trại là vì trước hết lúc đó tôi quá đói, kế đến là tôi
khá tự tin và liều mạng khi nghĩ rằng nếu bị bắt gặp tại kho cùng lắm
tôi chỉ bị đánh, bị bỏ đói vài ngày chứ không thể bị bắn chết dù đã có
những cái chết trước đó với lý do ăn trộm, nhưng tôi nghi ngờ điều đó.
Phải có điều gì khác lớn hơn là chỉ vì mấy củ khoai, trái bí mà anh em
tù binh bị bắn chết, nhất là đồng bào dân tộc làm gì có loại vũ khí hiện
đại như AK47? Lý do duy nhất mà tôi nghĩ họ bị bắn chết là sự trả thù
cho những thiệt hại mà những anh em nầy đã gây ra cho bọn cộng sản khi
còn phục vụ trong quân đội VNCH, được che dấu bởi những lý do hết sức
nhảm nhí- ăn trộm hay trốn trại!
Khi còn ở tổ "anh nuôi" tôi thường qua kho của bọn chúng để nhận gạo
về nấu, nên tôi nắm được quy luật về giờ giấc và đường đi nước bước
trong kho gạo. Cửa rào và cửa kho gạo không có khoá mà chỉ đóng rồi cột
dây cho khỏi bung ra mà thôi.
Bọn cán binh thì sau bữa cơm chiều là
chúng rút về chổ ngủ, họa hoằn lắm mới xuống nhà bếp mà kho gạo được
ngăn cách với nhà bếp bằng một tấm vách, chỉ khi nào cần đong gạo mới có
người, còn ngoài lúc đó thì không có ai. Vấn đề là làm sao từ ngoài sân
đi vào nhà kho mà không bị phát hiện? Tôi cố suy nghĩ làm cách nào để
che bộ quần áo trắng của tôi cho khỏi nổi bật trong bóng đêm. Cuối cùng
tôi quyết định mượn chiếc áo Jacket của một người tù binh khác, nằm cách
chổ tôi vài người, tên anh ta là Trần Đại. Đó là một người lính thuộc
binh chủng Biệt-Động-Quân, khoảng ngoài 30 tuổi, quê Quảng-Ngãi. Khi
nghe tôi hỏi mượn áo, anh ta hỏi lại tôi để làm gì? Không trả lời thẳng
câu hỏi của anh ta, tôi ỡm ờ:
- Anh có đói không? Tôi đi kiếm gạo nấu cơm ăn.
- Ở đâu có mà mầy kiếm? Mầy tính đi chôm hả?
Không biết trả lời thế nào cho hợp lý, tôi đành gật đầu. Bấy giờ anh ta hạ thấp giọng thì thào hỏi
12/24/2016
- Mầy tính chôm gạo của tụi nó hả?
Câu hỏi thừa vì ngoài "tụi nó" ra
thì anh em tù binh làm gì có gạo mà trộm. Bực mình vì bị hỏi lung tung
mất thời gian, tôi hỏi cộc lốc:
- Anh có cho mượn không mà hỏi hoài vậy?
Vừa cởi áo đưa tôi, Đại vừa đe:
- Một chút không có là mầy chết với tao.
Khoác
vội chiếc áo Jacket vào người xong tôi xắn quần nhái lên cao tới háng
để không bị lộ phần màu trắng ra ngoài và lấy cái bao thường dùng đựng
cát xếp lại gọn gàng cho vào túi áo Jacket rồi đi về phía nhà kho. Không
có ai vì thường ăn cơm chiều xong là mọi người đều lên giường nghỉ để
duỡng sức hầu mai tiếp tục lao động. Tuy vậy, tôi vẫn chuẩn bị sẵn câu
trả lời nếu bất chợt gặp một ai đó hỏi tại sao đi đâu giờ nầy thì tôi sẽ
nói là bị đau bụng, nhức đầu gì đó phải đi gặp lãnh đạo trại để xin
thuốc uống. Tôi mở dây cột cổng rào rồi bước nhanh về phía cửa kho gạo.
Đến nơi, tôi gấp rút mở dây cột cửa, nhưng tôi hơi ngạc nhiên là cửa kho
gạo không được cột lại như thường lệ. Tôi lách vội vào trong rồi mò mẫm
đi về hướng cái bồ đựng gạo, nó nằm sát vách nhà bếp của tụi cán binh
quản lý trại. Nhưng tôi chợt rụng rời khi phát hiện thấy ánh sáng lọt
qua mấy khe hở của tấm vách ngăn và tiếng xì xầm nói chuyện của ít nhất
2 người có cả nam lẫn nữ, phát ra từ phía nhà bếp. Đây là một tình
huống ngoài dự đoán của tôi. Tôi phân vân không biết xử lý như thế nào
lúc đó. Bất đắc dĩ tôi phải lắng nghe chúng nói với nhau những gì để có
thể tính tiếp. Thì ra bọn chúng đang nhổ lông vịt để nấu cháo. Tôi kinh
hoàng khi nhớ là cái cửa kho không được cột lại. Có nghĩa là bọn chúng
sẽ trở lại nhà kho để lấy gạo về nấu cháo. Hoặc, nếu đã lấy gạo rồi
nhưng chúng nhớ chưa cột cửa mà quay lại cột vào thì tôi sẽ bị nhốt
trong kho gạo cho tới sáng hôm sau đến khi có người đi lãnh gạo. Lúc đó
tôi chết chắc. Nghĩ tới thảm cảnh đó, tôi muốn tháo lui, nhưng lại thấy
tiếc vì đã vào được đến đây, gạo đang trong tầm tay mà bỏ đi thì không
đành. Thế là tôi quyết định sẽ trộm một ít gạo rồi rút lui cũng được.
Tôi mở cái bao đựng cát ra mà nghe tiếng sột soạt vang lồng lộng. Tôi
thầm cầu khẩn tất cả những vị thần thánh nào mà tôi nhớ tên xin giúp tôi
tai qua nạn khỏi trong vụ nầy. Mở bao ra rồi, tôi không dùng cái thau
để múc gạo mà dùng tay lùa gạo vào bao. Dù rất chậm rãi và nhẹ nhàng,
nhưng sao tôi vẫn nghe âm thanh vang dội theo từng động tác của mình.
Tôi bèn canh lúc bọn nhổ lông vịt nói chuyện thì lùa gạo vào bao với hy
vọng tiếng nói chuyện sẽ át tiếng khua phát ra từ động tác của tôi. Được
gần nữa bao, tôi túm miệng bao lại xách lên. Tôi không thể lấy đầy bao
vì như thế sẽ rất nặng và cồng kềnh không thể cất dấu khi đi ra ngoài mà
chẳng may gặp phải ai đó. Với lại, tôi không đủ can đảm nán lại trong
kho để hốt thêm được nữa. Lúc đi đến gần cửa kho, tôi vô cùng hồi hộp vì
không biết cửa có bị cột lại chưa? Hoặc vừa mở cửa ra mà gặp tụi cán
binh đứng lù lù trước cửa thì kể như tất cả mọi cố gắng của tôi từ đầu
hôm đến giờ đều vô nghĩa. Tôi đẩy nhẹ cửa, chưa bị cột, tôi thở phào rồi
nhìn ra ngoài, không có ai. Tôi bước nhanh ra ngoài đóng cửa lại như cũ
rồi đi về phía cổng rào. Chỉ cách khoảng chục mét thôi mà sao tôi thấy
xa vời vợi. Đây là khu vực của bọn quản lý trại tù, anh em tù binh không
được quyền qua lại trừ mấy người tổ "anh nuôi" lúc đi nhận gạo về nấu
cơm. Nỗi sợ thúc giục tôi hãy chạy nhanh ra khỏi nơi nguy hiểm, nhưng lý
trí vẫn bảo tôi hãy cố gắng bình tĩnh vì chỉ cần một sơ suất nhỏ làm
người khác chú ý là sẽ trả giá đắt và tôi đã hành động theo lý trí. Khi
băng qua cổng rào, tôi như đã trút bỏ được gánh nặng ngàn cân treo trong
tim từ lúc bước chân vào ranh giới giữa trại tù và bọn quản lý, nó
giống như ranh giới giữa sự sống và cái chết.
Về
đến chổ ngủ của mình, tôi thấy Đại đang ngồi bó gối chờ tôi. Đưa bao gạo
cho Đại đem dấu, tôi nghe Đại thì thầm bên tai:
- Đ.M. Tao sợ cho mầy gần chết.
- Anh kiếm cái lon, cái hộp gì đó nấu miếng cơm ăn đi. Tôi cũng sợ chết
mẹ. Tụi nó nhổ lông vịt trong bếp. May mà nó không biết.
- Ừ! Tao thấy tụi nó đi ra, đi vô. Bởi vậy tao mới sợ cho mầy.
Nói xong, Đại lấy chiếc áo Jacket mà tôi vừa trả đem che bao gạo lại
rồi xách đi về phía nhà bếp. Lúc nằm nghỉ chờ cơm, tôi nhớ lại sự việc
mà kinh sợ xen lẫn một chút tự hào. Không biết mấy vị thần thánh gì đó
có nghe lời cầu khẩn hết sức thành kính của tôi mà ra sức che chở hay số
phận của tôi chưa hết mà tôi đã luớt qua hiểm nguy một cách kỳ diệu.
Lát sau, Đại mang lên một cái lon đựng cơm, 2 đứa âm thầm bốc ăn mà
không ai nói với ai tiếng nào nữa. Đêm đó, tôi không thể ngủ ngon giấc
vì nỗi ám ảnh của hành động đã qua.
Tối hôm sau, tôi kêu Đại lấy
gạo ra nấu cơm ăn vì chúng tôi không thể nấu ban ngày sẽ có nhiều người
biết, nhưng Đại cho biết tối qua lúc lấy gạo để nấu cơm xong đem dấu,
nhưng không biết ai đã lấy mất rồi. Tôi tức giận vô cùng. Bao nhiêu công
sức, bao nhiêu hiểm nguy mình phải chịu đựng rốt cuộc lại chỉ có được
một bữa ăn, còn người khác ở không hưởng lợi. Tôi nghi ngờ Đại đã không
thành thực, nhưng tôi không thể làm gì khác được. Tôi tự an ủi là số gạo
mà tôi trộm được thật sự cũng không nhiều lắm, chưa đầy nữa bao đựng
cát thì cũng chỉ ăn được vài ngày, sau đó sẽ tiếp tục trở lại tình trạng
đói mà thôi. Nhờ suy nghĩ theo chiều hướng vậy nên tôi cũng nguôi ngoai
đi nhiều....
12/25/2016
Một buổi sáng cuối tháng 5/75, tức sau ngày giải phóng khoảng một tháng,
tên giám đốc trại F7D cho họp toàn thể anh em tù binh lại để thông báo
ban giám đốc trại sẽ tổ chức phóng thích cho những anh em nào đạt "thành
tích" trong việc thành khẩn khai báo, ít có "nợ máu với nhân dân" và
trải qua quá trình học tập cải tạo có tiến bộ...sẽ được trả về sum họp
với gia đình. Lẽ ra khi đón nhận nguồn tin như thế, mọi người sẽ vui
mừng mới phải. Nhưng, tôi thấy ai nấy cũng dửng dưng tỏ vẻ không quan
tâm. Có thể họ đã quá mệt mỏi hoặc tệ hơn là không còn tin vào cộng sản
nên những lời nói của tên giám đốc trại không đủ sức thuyết phục họ được
nữa. Tôi nghĩ mình sẽ có tên trong đợt nầy nếu thật sự có phóng thích,
vì tôi đâu có gì để viết trong bản khai. Nhưng, có lẽ chúng ghét tôi
tình nguyện gia nhập quân đội năm 17 tuổi hay sao ấy mà trong danh sách
mấy chục người không có tên của tôi. Khi số người nầy rời khỏi trại,
không ai nói lời từ biệt cũng không ai thốt lên hẹn gặp lại gì cả. Đơn
giản là không ai biết được điều gì chờ đợi mình ở phía trước. Vì vậy,
tôi cũng như nhiều anh em tù binh khác vẫn chẳng thấy buồn lo hay trăn
trở gì. Chúng tôi vẫn một ngày như mọi ngày, chỉ có điều trong trại trở
nên vắng vẻ hơn, ảm đạm hơn so với lúc mới được lập.
Trong
điều kiện ăn ở, sinh hoạt thiếu thốn và mất vệ sinh như trong trại tù,
chúng tôi đều bị rận. Đó là những con vật nhỏ li ti hình dáng giống hệt
con chí (chấy) nhưng có mầu trắng sống bám vào quần áo để hút máu. Thế
là chúng tôi có thêm việc làm sau những giờ lao động là bắt rận để giết
thời gian. Nói đến rận cũng phải nhắc đến chí ( chấy) cho đủ cặp. Nhiều
tháng liền không cắt tóc, gội đầu nên mỗi lần gãi đầu là chắc chắn sẽ
rớt ra vài con. Chúng tôi nhìn giống con vật gì đó hơn là giống người
với đầu tóc bờm xờm, da dẻ xanh xao, thân hình ốm yếu, tiền tụy, hốc
hác...nếu người nhà có gặp cũng chưa chắc nhận ra. Nhưng, đó chưa phải
là nỗi thống khổ nhất cho đến khi vào một ngày, tôi bổng nhận ta mình bị
ghẻ ngứa, lúc đầu chỉ ở những vùng da non rồi lan dần khắp người theo
những cái gãi của tôi. Bộ áo liền quần của tôi từ mầu trắng ban đầu đã
biến thành lốm đốm đủ mầu do bùn đất, do mồ hôi và máu mủ mà thành. Bây
giờ, nó đã dầy lên và cứng còng như một cái áo giáp vì nước vàng từ
những đám ghẻ chảy ra rồi từ từ khô lại. Tôi hết sức đau đớn mỗi khi cử
động nên không thể đi lao động được nữa. Tôi nằm một chổ riêng biệt và
nhớ đến anh chàng bị bệnh phù thủng lúc trước. Có lẽ tôi cũng sắp chết
như anh ấy. Mỗi ngày tôi đều nhìn vào mớ máu mủ trong người để xem có
dòi không? Tôi hối hận vì đã làm mẹ mình đau buồn. Nếu tôi có bỏ mạng
nơi đây hẳn là tôi sẽ tìm về bên mẹ mong bà tha thứ cho sự bướng bĩnh
của mình.
Nhưng, số tôi chưa tận vì sau đó một tháng
kể từ đợt phóng thích đầu tiên, trại F7D lại tổ chức phóng thích đợt
hai. Lần nầy có tên của tôi. Khi cầm tờ giấy phóng thích trên tay, tôi
mừng cho mình nhưng lại buồn cho những anh em còn ở lại. Không biết họ
có sống nỗi đến đợt phóng thích sau không? Cũng như lần trước, không có
lời từ biệt, không câu hò hẹn nào được thốt lên. Rồi chúng tôi lũ lượt
kéo nhau đi, nhưng tôi không thể đi nhanh như cái lần rời chùa tỉnh hội
Đà-Nẵng tìm về Sài-Gòn giống lúc trước được nữa. Giờ đây, tôi chỉ còn là
một bộ xương biết cử động. Nhìn những anh em thoăn thoắt trên đường,
tôi không hiểu họ lấy đâu ra sức lực để đi được như thế? Rất may là tôi
không phải đi một mình mà có thêm một người bạn đồng hành. Đó là một
người lính già cũng không đủ sức bám theo đám người trẻ kia nên chúng
tôi cùng chậm chạp kè nhau xuống núi. Phải nói là nếu không nhờ có anh,
tôi không biết đường nào đi mà giữa rừng núi đâu có ai để hỏi thăm.
Chúng tôi ngủ lại nhà dân ven đường một đêm rồi xuống tới Quảng-Ngãi.
Sau nhiều tháng trời sống trong rừng sâu núi thẫm, hôm nay mới được dịp
nhìn lại phố thị. Không biết Quảng-Ngãi trước đây như thế nào chứ hiện
tại tôi thấy nó cũng không được náo nhiệt cho lắm. Có thể tôi đã quen
với sự nhộn nhịp, tất bật của Sài-Gòn và Đà-Nẵng chăng? Hay cuộc sống
sau giải phóng là như thế? Điêu tàn và thiếu sinh khí.
Chúng tôi tìm
đến bến xe Quảng-Ngãi để xin quá giang về Sài-Gòn. Một anh chàng chắc là
trưởng bến lên tiếng trách chúng tôi ham chơi, la cà đâu đó nên giờ mới
mò tới bến xe để xin về. Anh ta nói hôm qua đã bố trí cho hai chiếc xe
đò đưa số anh em cải tạo đi rồi nên giờ không có xe nữa. Chúng tôi trình
bày hoàn cảnh của mình là người thì bệnh, người thì già nên đi đứng
chậm chạp không thể theo kịp anh em. Mặt khác, chúng tôi là người
Sài-Gòn đi lính rồi học cải tạo ngoài nầy nên đâu quen biết ai ở đây mà
la cà. Thấy chúng tôi thành thật, anh xuống giọng nói giờ chỉ có xe hàng
thôi, nhưng chỉ đi tới Cam-Ranh chứ không về Sài-Gòn, nếu chúng tôi
chấp nhận thì lên xe. Trong tình thế nầy thì quá tốt đối với chúng tôi
rồi, nhưng anh bạn già lại đổi ý đòi ở lại, thế là một mình tôi lên xe
đi về phương Nam. Trên xe có vài người phụ nữ là dân buôn bán đường dài,
trong đó có hai cô gái cũng trạc tuổi tôi khiến tôi thấy xấu hổ khi
nhìn lại bộ quần áo lem luốt, rách rưới, trống trên hở dưới của mình.
Tôi bèn ngồi vào cái bánh dự phòng dù không hề êm ái chút nào, nhưng còn
hơn là phải tênh hênh ra trước mặt mọi người. Dọc đường, khi xe dừng
lại để cho mọi người đi vệ sinh hay ăn cơm, tôi vẫn ngồi lỳ trong cái
bánh dự phòng trên xe. Chỉ đơn giản một điều là tôi không có tiền thì có
xuống xe, tôi cũng không biết làm gì, mua gì? Thấy tôi không rời khỏi
xe, mấy người phụ nữ chắc cũng hiểu tình cảnh của tôi nên họ mua cho tôi
mấy cái bánh tét, nhưng tôi không thể nào ăn được vì nhớ đến số anh em
tù binh còn ở lại trại. Nước mắt tôi lại ứa ra. Có lúc tôi thấy mình
thật là kỳ? Khi còn trong trại thì đói khát thèm ăn đủ thứ, nhưng khi ra
ngoài có đồ ăn trong tay thì lại nghẹn ngào không thể ăn được.
Đến tối, xe tới Cam-Ranh. Những người phụ nữ lần lượt xuống xe,
chỉ còn lại mình tôi. Anh tài xế chắc cũng là chủ xe hỏi tôi xuống đâu?
Tôi xin về nhà anh ngủ nhờ một đêm vì đối với tôi bây giờ ở đâu cũng
vậy, đều là xa lạ. Khi đến nhà, anh mời tôi cùng ăn cơm với anh, nhưng
tôi xin phép ăn riêng vì tôi không muốn mọi người mất ngon khi ngồi
chung với người có hình dáng dơ bẩn, gớm ghiết như mình. Đó cũng là lần
đầu tiên sau hơn nữa năm trời, tôi mới được ăn cơm trắng với canh chua,
cá kho. Thật là một trong số rất ít bữa ăn ngon nhất trong đời của
mình. Sau đó, tôi xin phép được ngủ ngoài hàng hiên nhà anh dù gia đình
anh nhiều lần kêu tôi đi tắm và vào ngủ trong nhà, nhưng tôi rất kiên
quyết từ chối.
Hôm sau, từ giã gia đình anh tài xế tốt bụng, tôi
tìm đường ra quốc lộ 1 để kiếm xe về Sài-Gòn. Có những người phụ nữ là
vợ lính VNCH đem theo con nhỏ đi tìm chồng. Họ không thấy chồng trở về
từ sau giải phóng đến nay nên lặn lội đi tìm mà không biết người chồng
thân thương của họ còn sống hay đã chết và nếu còn sống thì đang lưu lạc
phương nào, giống như tôi chẳng hạn. Gặp tôi, họ vồn vã hỏi thăm về đơn
vị, về nơi đóng quân, có biết người tên gì đó không và nơi tôi đã học
tập cải tạo v.v...nhưng tôi cũng không cung cấp được gì nhiều cho họ.
Có nhiều chiếc xe đò đi về Sài-Gòn chạy qua, nhưng tôi không
thể bắt được chiếc xe nào dừng lại. Chỉ vì họ thấy hình dạng tôi quá ư
là nhếch nhác, bẩn thỉu không thể nào là khách đi xe được nên chạy luôn.
Thấy vậy, một chị phụ nữ đi tìm chồng đích thân đón dùm tôi được một
chiếc xe đò. Khi tôi lên xe, anh chàng phụ xe (lơ) nhìn tôi bằng ánh mắt
khó chịu rồi thẳng thừng hỏi tôi:
- Anh đi xe hả?
Tôi gật đầu. Anh ta hỏi tiếp:
- Có tiền trả tiền xe không?
Tôi
lắc đầu. Thế là anh ta chửi tôi nào là ngụy, nào là đồ lừa đảo, dối
trá, bịp bợm gì đó một thôi, một hồi. Có một bà già cũng trạc tuổi mẹ
tôi thấy vậy móc túi định trả tiền xe cho tôi, nhưng anh chàng phụ xe
kia hình như thấy mình cũng quá đáng khi phát hiện có nhiều người trên
xe nhìn anh bằng ánh mắt thiếu thiện cảm nên đã im lặng, chẳng những vậy
anh ta còn lấy một cái ghế nhựa cho tôi ngồi ở giữa 2 hàng ghế. Cũng
như lúc quá giang xe hàng từ Quảng-Ngãi về Cam-Ranh, tôi cũng không dám
rời khỏi xe để đi vệ sinh và cũng không thể ăn uống được gì. Tôi chỉ
mong muốn một điều là được nhanh chóng về với gia đình của mình, với
người mẹ thân yêu của mình để quỳ xuống xin lỗi bà.
Khi xe vào
Sài-Gòn, bao nhiêu cảm xúc trỗi dậy làm tôi lại rơi nước mắt. Quê nhà
thân yêu của tôi đây rồi. Cảnh cũ vẫn còn nguyên vẹn như lúc tôi rời đi
khi chọn binh nghiệp làm lẽ sống. Nhưng, có một cái gì đó rất khác đã
xảy ra. Sài-Gòn không còn xe cộ nhộn nhịp, không còn cảnh nam thanh nữ
tú dập dìu, hàng quán tấp nập như trước nữa. Một sự đìu hiu bao trùm lên
toàn bộ không gian nơi từng được ca ngợi là hòn Ngọc Viễn Đông. Xe vừa
qua cầu Bông thì tôi xin xuống vì đã gần đến nhà. Tôi thả bộ trên con
đường quen thuộc ngày xưa, nhưng tôi không có được cảm giác háo hức của
một người đi xa trở về. Nó xa lạ, trống vắng làm sao. Từ đầu hẻm Trường
Tiền vào nhà, không một ai trong xóm nhận ra tôi. Có lẽ tôi không còn là
tôi cũng như Sài-Gòn không còn là Sài-Gòn nữa. Vẫn là hình dáng ấy ,
nhưng đã khác hẳn. Những đứa em tôi chắc là bằng linh cảm của tình máu
mủ nên chúng nhận ra được tôi và reo ầm lên làm ba tôi đang chẻ cũi
chuẩn bị cho bữa cơm chiều, giật nẩy mình. Ông buông rơi con dao trên
tay nhìn sững vào thằng người đứng trước mặt ông giây lát như không tin
vào sự thật rồi ông ôm chầm lấy tôi, mắt ông đỏ hoe. Mẹ tôi từ trong nhà
chạy vụt ra với 2 hàng nước mắt ràn rụa, bà cũng lao vào ôm chặt tôi.
Tôi nhìn kỹ 2 người thân yêu của mình. Họ già đi nhiều, chắc là đã quá
lo lắng cho tôi. Sau nầy, tôi nghe họ kể lại là thằng bạn học cùng xóm
với tôi tên Phan Đông, đi lính trước tôi vài tháng ở Đoàn 71, cũng từ
Đà-Nẵng về tới Lái-Thiêu, đụng trận với việt cộng và đã hy sinh, làm ba
mẹ tôi càng thêm bấn loạn. Sau giây phút gặp gỡ đầy cảm xúc, tôi bước
vào nhà nhìn quanh. Tất cả đều còn nguyên như trước. Tôi lấy quần áo của
mình rồi đi tắm. Tôi phải rất khổ sở mới trút bỏ được bộ đồ cải tạo ra
khỏi người vì máu mủ bê bết đã làm nó như dính chặt vào da. Tắm xong,
tôi xách bộ đồ dơ đã gắn bó, che chở cho tôi một thời gian dài bỏ vào
thùng rác như muốn quên đi một giai đoạn hết sức đau buồn. Nhưng, về với
những người thân yêu trong gia đình chỉ là một sự chuyển tiếp trong
chuỗi đời sống của những người lính VNCH như tôi khi tương lai hết sức
mờ mịt vì cả miền nam Việt Nam đã trở thành một nhà tù rộng lớn của chế
độ cộng sản vô đạo. Tất cả sự tàn bạo của cái chế độ đáng nguyền rủa nầy
đang nhe nanh, múa vuốt chờ đợi chúng tôi, chờ đợi những người thua
cuộc, ở phía trước./.
Dec 1/2016
Khi anh nhắc đến ch/uý Vui, em nhớ đến anh nầy vì sau khi
triệt thoái từ ĐĐ xuống cái làng ở chân núi thì đụng độ với vc. Lúc ấy, 3 toán
của mình và trung đội 3 TQLC chạy lên ngọn đồi gần đó tính vòng qua làng ra ngã
3 Huế. Anh Vui đi phía trước cách em khoãng 15m, sau lưng em cách khoãng 5m là
Hậu (chắc Hậu là người cuối cùng). Dù súng nổ vang trời, anh Vui vẫn đi thanh
thản như không có gì xãy ra. Bỗng, sau lưng anh một cột khói bốc lên, đất đá
văng tứ tán. Một trái đạn pháo đã nổ sau lưng anh ấy. Khi khói bụi tan đi, em
không thấy chiếc ba lô của anh ấy đâu nữa, quần áo cũng bị rách vài nơi, nhưng
anh ấy vẫn đi lên đồi và khuất sau mấy bụi sim. Lúc nầy, em và Hậu vẫn lóp ngóp
dưới ruộng. Hậu đã quá mệt nên dừng lại và xin em một trái lựu đạn. Em quăng
cho nó một trái M67 và nói nó cố gắng lên (em và Hậu cùng là khoá sinh chỉ huy
đại đội 847 và cũng gần nhà nên phải nói là rất thân). Em tưởng nó sẽ dùng lựu
đạn khi cận chiến hoặc bị thương không cứu được. Nhưng, khi em bò thêm vài bước
tới được bờ ruộng, em quay lại báo cho nó biết thì em thấy nó nhắm mắt mà 2 tay
ôm bụng. Em hốt hoảng kêu lên: Hậu !!! thì cũng vừa lúc một tiếng nổ vang lên, lửa
trùm lên người nó rồi nó ngã vật ra sau. Em đã khóc vì từ lúc đó em đã mất đi
người bạn thân nhất của mình. Sau đó, em vừa khóc vừa leo lên bờ chạy vào mấy bụi
sim, nơi mấy anh em mình bắn trả lại tụi vc. Anh Long thấy em khóc nên có vẻ bực
bội (chắc anh quê trước mấy anh em TQLC) nên hỏi: làm cái gì mà khóc. Em trả lời:
Hậu chết rồi. Em thấy anh ấy lặng đi một lúc rồi quay mặt qua chổ khác không
nói gì thêm nữa... Có thể anh Ngọc đã sót trường hợp hy sinh của Hậu cũng nên.
Nhắc đến điều nầy nghe buồn lắm nhưng biết làm sao? Em chỉ mong tên của Hậu
cũng được lưu vào quân sử của NKT để bên kia thế giới nó không bị tủi thân.
Mong anh hiểu
http://altsnkt.blogspot.ca/2016/08/anh-linh-tu-si-nha-ky-thuat.html
Dec 2/2016
Sau khi học tập cải tạo về, em có
ghé nhà Hậu để báo tin, nhà nó ở trên đuờng Kỳ Đồng, nay là Lê Văn Sĩ, quận 3.
Em thuật lại vụ việc Hậu rút lựu đạn tự sát, má nó chửi em: Sao đưa lựu đạn cho
nó? Rồi bà khóc thê thảm. Em cũng lặng lẽ rút lui. Em rất hiểu tâm trạng của
một người mẹ bị mất con nên em không giận bà ấy mà trái lại em tự dằn vặt mình
với câu hỏi: Phải chi mình đừng đưa lựu đạn cho Hậu nhỉ? Giờ thì QLVNCH không
còn nữa! NKT không còn nữa nên nói điều nầy ra không phải đòi hỏi quyền lợi nầy
kia. Ở cõi vĩnh hằng chắc Hậu cũng đã an vui. Nhưng, những người còn sống như
anh em mình có trách nhiệm phải nhớ những người đã nằm xuống vì lý tưởng bảo vệ
tổ quốc để sự hy sinh của họ không còn vô nghĩa. Xin hãy ghi tên Lê Phước Hậu
vào bảng tử sĩ NKT anh Hoà nhé.
Từ đó đến nay em không dám ghé nhà
Hậu lần nào nữa. Với lại, đã hơn 40 năm qua không biết nhà nó còn đó hay đã đi
nơi khác và em cũng không nhớ đường vào nhà nó.
Nhưng em sẽ cố gắng !!!