Hằng năm tại Hoa-Kỳ cứ vào mỗi thứ năm, tuần lễ cuối cùng của tháng 11; chúng ta có ngày Lễ gọi là Thanksgiving (Lễ Tạ-Ơn). Tại sao lại có ngày Lễ đáng yêu này"
Theo sử liệu nước Mỹ thì truyền-thống của ngày Lễ Thanksgiving là do những người Anh quốc thuộc giáo-phái Tin-Lành Thanh-Giáo di dân đến Tân-Thế-Giới từ năm 1620 để tránh nạn đàn áp tôn-giáo. Họ bỏ sang Hòa-Lan rồi sau đó đến châu Mỹ trên con tàu mang tên “May Flower”. Những người di dân đầu tiên ấy là người “Pilgrims”, họ đến được vùng “Plymouth Rock” vào ngày 11 tháng 12, năm 1620. Tại đây họ phải trải qua một mùa đông băng giá khắc nghiệt, đã có đến 46 người trong số 102 người di-dân trên con tàu “May flower” bị thiệt mạng.
Nhưng kể từ năm 1621, người “Pilgrims” may mắn dược dân da đỏ bản xứ tốt bụng giúp đỡ cung cấp lương thực; đồng thời chỉ dẫn cách thức canh tác, trồng trọt hầu mong có một cuộc sống tốt đẹp hơn tại miền đất hứa. Từ đó những người di dân đầu tiên đã thâu hoạch được mùa màng canh tác khả quan.
Cũng trong thời gian này có đến 91 người da đỏ bản xứ châu Mỹ với 56 người “Pilgrims” sống sót cùng làm một buổi Lễ an-táng cho những người đã khuất. Sau đó họ làm một buổi Lễ vô cùng long trọng để Tạ-Ơn Thượng-Đế.
Thức ăn trong buổi Lễ Tạ-Ơn đầu tiên này (The First Thanksgiving) rất khiêm tốn vì đã từ lâu họ không còn bột mì nên không có bánh mì hay bất cứ các loại bánh nào khác; họ phải dùng bột Ngô và Bí đỏ để làm bánh (Pumpkin Pie). Lúc bấy giờ họ cũng không có Sữa, Bơ hoặc Khoai-tây. Bữa tiệc Tạ-Ơn đầu tiên gồm có các loại Cá, thịt Nai, Nghêu, Tôm-hùm, Trái-cây khô, các loại Dâu tươi (Berries).
Mãi cho đến năm 1676, Hội-Đồng-Dân-Cử của Thị-Trấn Charlestown Massachusetts đã quyết-định chọn ngày 29 tháng 6 làm ngày Lễ Tạ-Ơn. Một trăm năm sau, vào khoảng tháng 10 năm 1777. Cả 13 thuộc-địa của Hoa-Kỳ cùng nhau cử hành ngày Lễ Tạ-Ơn lần đầu. Tổng-Thống George Washington đã tuyên xưng ngày Lễ Thanksgiving vào năm 1789.
Sau đó có một Ký-gỉả báo chí tên Sarah Josepha Hale đã dồn nhiều nỗ lực để viết về các tài-liệu đặc biệt cho ngày Lễ Tạ-Ơn trong quyển “Boston Ladies’s Magazine” và quyển “Godey’s Lady’s Book”. Cũng nhờ vào các cuộc vận động không ngừng của báo-chí thời bấy giờ, bằng cách gửi thư-từ cùng các văn-bản đệ trình lên Thống-Đốc cùng Tổng-Thống đương thời nên 40 năm sau (tính từ thời kỳ vận động của ký-giả Sarah Josepha Hale) vào năm 1863 Tổng-Thống Lincoln mới chọn ngày thứ Năm của tuần lễ cuối tháng 11 làm ngày Lễ Tạ-Ơn (Thanksgiving) cho toàn quốc.
Thời gian sau đó ngày Thanksgiving cũng đã thay đổi đôi lần bởi ông Franklin Roosevelt nhưng cuối cùng vào năm 1941, Quốc-Hội-Liên-Bang Hoa-Kỳ đã ra luật chọn ngày thứ Năm thuộc tuần lễ thứ Tư của tháng 11 Dương-Lịch hằng năm làm ngày nghỉ Lễ Thanksgiving (Holiday) chính thức cho đến bây giờ.
Theo sử liệu nước Mỹ thì truyền-thống của ngày Lễ Thanksgiving là do những người Anh quốc thuộc giáo-phái Tin-Lành Thanh-Giáo di dân đến Tân-Thế-Giới từ năm 1620 để tránh nạn đàn áp tôn-giáo. Họ bỏ sang Hòa-Lan rồi sau đó đến châu Mỹ trên con tàu mang tên “May Flower”. Những người di dân đầu tiên ấy là người “Pilgrims”, họ đến được vùng “Plymouth Rock” vào ngày 11 tháng 12, năm 1620. Tại đây họ phải trải qua một mùa đông băng giá khắc nghiệt, đã có đến 46 người trong số 102 người di-dân trên con tàu “May flower” bị thiệt mạng.
Nhưng kể từ năm 1621, người “Pilgrims” may mắn dược dân da đỏ bản xứ tốt bụng giúp đỡ cung cấp lương thực; đồng thời chỉ dẫn cách thức canh tác, trồng trọt hầu mong có một cuộc sống tốt đẹp hơn tại miền đất hứa. Từ đó những người di dân đầu tiên đã thâu hoạch được mùa màng canh tác khả quan.
Cũng trong thời gian này có đến 91 người da đỏ bản xứ châu Mỹ với 56 người “Pilgrims” sống sót cùng làm một buổi Lễ an-táng cho những người đã khuất. Sau đó họ làm một buổi Lễ vô cùng long trọng để Tạ-Ơn Thượng-Đế.
Thức ăn trong buổi Lễ Tạ-Ơn đầu tiên này (The First Thanksgiving) rất khiêm tốn vì đã từ lâu họ không còn bột mì nên không có bánh mì hay bất cứ các loại bánh nào khác; họ phải dùng bột Ngô và Bí đỏ để làm bánh (Pumpkin Pie). Lúc bấy giờ họ cũng không có Sữa, Bơ hoặc Khoai-tây. Bữa tiệc Tạ-Ơn đầu tiên gồm có các loại Cá, thịt Nai, Nghêu, Tôm-hùm, Trái-cây khô, các loại Dâu tươi (Berries).
Mãi cho đến năm 1676, Hội-Đồng-Dân-Cử của Thị-Trấn Charlestown Massachusetts đã quyết-định chọn ngày 29 tháng 6 làm ngày Lễ Tạ-Ơn. Một trăm năm sau, vào khoảng tháng 10 năm 1777. Cả 13 thuộc-địa của Hoa-Kỳ cùng nhau cử hành ngày Lễ Tạ-Ơn lần đầu. Tổng-Thống George Washington đã tuyên xưng ngày Lễ Thanksgiving vào năm 1789.
Sau đó có một Ký-gỉả báo chí tên Sarah Josepha Hale đã dồn nhiều nỗ lực để viết về các tài-liệu đặc biệt cho ngày Lễ Tạ-Ơn trong quyển “Boston Ladies’s Magazine” và quyển “Godey’s Lady’s Book”. Cũng nhờ vào các cuộc vận động không ngừng của báo-chí thời bấy giờ, bằng cách gửi thư-từ cùng các văn-bản đệ trình lên Thống-Đốc cùng Tổng-Thống đương thời nên 40 năm sau (tính từ thời kỳ vận động của ký-giả Sarah Josepha Hale) vào năm 1863 Tổng-Thống Lincoln mới chọn ngày thứ Năm của tuần lễ cuối tháng 11 làm ngày Lễ Tạ-Ơn (Thanksgiving) cho toàn quốc.
Thời gian sau đó ngày Thanksgiving cũng đã thay đổi đôi lần bởi ông Franklin Roosevelt nhưng cuối cùng vào năm 1941, Quốc-Hội-Liên-Bang Hoa-Kỳ đã ra luật chọn ngày thứ Năm thuộc tuần lễ thứ Tư của tháng 11 Dương-Lịch hằng năm làm ngày nghỉ Lễ Thanksgiving (Holiday) chính thức cho đến bây giờ.
Ai trong chúng ta cũng có thể nhận biết được con người dù sinh ra ở bất cứ nơi nào trên trái đất, họ cũng đều có Tổ, có Tông. Giống như nước có Nguồn, cây có Cội. Truyền thống cao đẹp của người Việt-Nam từ ngàn xưa đến nay đều tin có một Đấng tối cao trên hết đó là Trời. Đạo thờ Trời của người Việt-Nam cũng nhằm giúp con người bé nhỏ chúng ta có dịp Tạ-Ơn Đấng đã tạo thành vũ-trụ vô biên, Đấng đã tạo nên loài người. Con đường thờ phượng ấy đã dẫn lối cho người Việt-Nam biết Tạ-Ơn Tổ-Tiên, Ông-Bà, nhất là hai Đấng Phụ-Mẫu sinh thành: Mẹ và Cha yêu dấu. Lòng Tạ-Ơn của người Việt-Nam không chỉ thể hiện trong những dịp Lễ mà là từng giây, từng phút, từng giờ trong mỗi một ngày của cuộc sống và ngay cả lúc Tổ-Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, Anh-Chị, Họ-Hàng, Thân-Tộc khi đã khuất núi thì những người còn sống vẫn bắt buộc phải làm Lễ Giỗ hằng năm, như một truyền thống cao quý bất diệt của Phong-Tục Việt-Nam.
Một nghịch-lý không thể phủ-nhận là ở một khía cạnh nào đó trong cuộc sống đời thường, ngoài những hạnh-phúc niềm vui hay tiếng cười giữa quan-hệ con Người với Người: vẫn thấp thoáng những giọt nước mắt khổ đau hay muộn phiền khắc khoải, lo âu, cùng vô vàn lòng trắc ẩn hay tệ bạc hơn là sự cay-nghiệt của dòng đời mà chúng ta chắc hẳn ai cũng đã có lần phải trải qua.
Với chúng tôi, mỗi một sớm mai thức giấc nhìn thấy mặt Trời là một ngày được sấp mình Tạ-Ơn Thượng-Đế, Tạ-Ơn Vạn-Vật, Vũ-Trụ, nhất là được Tạ-Ơn con Người. Từ Cụ già đến Bé thơ, tình thân đến những người chúng tôi chưa bao giờ quen biết như trong các “Nursing-Home” ở quận Cam, nơi mà “Chân Quê” vẫn đến sinh-hoạt thiện-nguyện bằng hình thức Âm-Nhạc mỗi cuối tuần suốt hơn chín năm qua. Như những người bất hạnh neo đơn, bệnh hoạn, tàn tật, cùi hủi, ăn mày, những Thương-Phế-Binh Cựu Quân-Lực Việt-Nam-Cộng-Hòa… tận cùng nhất bên quê nhà mà chúng tôi được nhiều cơ may thường xuyên trở về chia xẻ Tình-Thương; rồi phải kể đến những kẻ Trọc-Phú sang giàu, quyền hành trong xã-hội. Chúng tôi đều Tạ-Ơn vì chính Họ đã mang cho chúng tôi đầy đủ những: Hỷ, Nộ, Ái, Ố (niềm Vui lẫn nỗi Đau, sự Chán-nản hay Tin-yêu, tiếng Cười và nước Mắt. Họ cũng là những Người mang cho chúng tôi Giận-hờn hoặc dậy cho chúng tôi lòng Tha-Thứ, Cảm-Thông…)
Tất cả, tất cả… Chúng tôi đều trải lòng mình ra để Tạ-Ơn hai chữ gọi là: “Con Người”. Vì từ “Con Người” họ đã dậy cho chúng tôi biết “Cách Sống” và biết “Sống” rất Tình Người.
Có một niềm Tạ-Ơn mà chúng tôi luôn chôn dấu tận đáy lòng, đó là Tạ-Ơn Người chúng tôi yêu. Người đã hy-sinh mạng sống họ cho chúng tôi. Người đã chết cho chúng tôi được sống. Những người Chiến-Sĩ Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa và các Chiến-Sĩ Đồng-Minh Hoa-Kỳ trong chiến cuộc năm xưa. Tạ-Ơn Anh vô vàn: NGƯỜI CHIẾN-SĨ VÔ-DANH.
Chân-Quê (Mùa Lễ Thanksgiving California)
No comments:
Post a Comment