Ngày 5 tháng 4 năm 1975. Được
lệnh của Đại Tá Đòan văn Nu Giám Đốc Nha Kỹ Thuật và Đại Tá Chỉ Huy
Trưởng Sở Liên Lạc, Tôi và Đại Tá Đằng bay ra Phan Rang thị sát mặt
trận và họp với Bộ tư lịnh tiền phương với 2 tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và
Phạm Ngọc Sang chỉ huy. Tình hình chiến sự đã đến hồi nguy ngập, Sư đoàn
2 Bộ Binh không còn đủ quân số và các Lữ Đoàn 2 và 3 nhảy dù cũng vừa
rút lui về Phan Rang tăng viện để cố thủ phòng tuyến trọng yếu này:
Mặt trận rất cần tiếp tế thêm
đạn và lực lượng để ngăn các làn sóng “biển người” đang tiến vào thành
phố từ các tỉnh Bình Trị Thiên và cao nguyên miền Trung.
Về Sở báo cáo xong là ngay tối
hôm ấy, tôi cho tập họp các toán lại và chia ra hai: một nửa ở lại SG
dưới sự chỉ Huy của Thiếu Tá Được và một nửa khoảng hơn 100 sĩ quan, Hạ
sĩ quan và binh sĩ chuẫn bị hành trang tác chiến đi Phan Rang cùng tôi
với bộ chỉ huy Đoàn gồm có: Thương, Đí, Hưng, Ẩn, Thuần và Lộc.
Chỉ có chiến đoàn 1 là còn đủ
quân số và đang sung sức để ứng chiến tức thời còn hai chiến đoàn Lôi Hổ
2 và 3 vừa từ mặt trận trở về cần được bổ sung lực lượng sẽ ra sau để
thay thế trong vòng vài tuần tới.
Sáng sớm ngày 6 tháng 4 năm 1975
Tướng Nghi biệt phái một chiếc
C130 chờ sẵn ở bộ Tổng Tham Mưu NKT để đưa quân tăng viện. Ngay ngày
đầu tiên đặt chân xuống sân bay Phan Rang, chúng tôi (vì quân số ít và
công tác đặc biệt) nên được ở gần bên cạnh phòng chỉ huy của bộ Tư Lệnh
Tiền Phương và 5 toán đã được cấp tốc thả xuống vùng đồi núi quanh tỉnh
Phan Rang thám sát mặt trận phía Bắc. Tin tức từ các toán đưa về rất khả
quan và có được nhiều tin tức quan trọng, do đó có thể có kế hoạch cụ
thể để ngăn chận làn sóng tiến quân của Cộng Sản.
Tướng Nghi đặc biệt khen thưởng
và khích lệ Chiến Đoàn 1 và gọi về Sài Gòn xin nghị định thăng chức 1
cấp tại mặt trận cho toàn thể các Anh em Lôi Hổ.
Tuy nhiên, chúng tôi không ai
thấy vui mừng mà lại thấy lo nhiều hơn vì tình hình chiến sự ngày càng
sôi động, các phòng tuyến bị vỡ từ các nơi tan tác chạy về đều than là
thiếu tiếp tế đạn dược và phòng không, máy bay không có nhiên liệu… còn
CS thì như đàn rắn bò hàng hàng lớp lớp tràn lan khắp nơi với chiến
thuật biển người…các tin tức quân sự từ những địa đầu giới tuyến bay về
tới tấp “vỡ tuyến” “rút lui”, “tan hàng” …dồn dập!…
2/ Vỡ phòng tuyến. Tan hàng:
Và điều gì đến đã đến!
Nhiên liệu cạn khô, đạn dược không còn, mọi tiếp liệu bị cắt…RỒI thì…
Ngày 15/4/75 : Các phòng tuyến quanh sân bay đã vỡ, sân bay bị VC
pháo kích dữ dội, vài chiếc máy bay bốc cháy, trực thăng đáp xuống thả
Nhảy Dù và Biệt Động Quân kéo về rồi lại bốc thương binh bay đi… Chiến
Đoàn 1 Lôi Hổ vẫn còn 2 con Hổ (2 toán) thả xuống Khu vực Tây Bắc Phan
Rang chưa bốc lên được mà phi vụ thì bị đình trệ vì các máy bay đã không
còn xăng để bay, Phi công phải múc từng ca xăng đổ vào bình Phi cơ từ
những thùng xăng cạn quẹt… Tôi cho gọi máy kêu hai toán đang làm nhiệm
vụ thám sát tìm đường rút về và ra lịnh tập trung các toán còn lại sẵn
sàng ứng chiến. Chiến Đoàn 1 đến lúc này vẫn còn nguyên quân số, chưa bị
thất thoát chút nào!
Nguyên một đêm không ngủ trong tiếng gầm thét của bom đạn pháo vào
sân bay, tôi cùng với đơn vị đi đến trước sân chờ giờ họp vào sáng sớm
ngày 16/4/75
Thấy các vị chỉ huy các binh đoàn đã đến, tôi cho lịnh các anh em ở
ngoài chờ, tôi vào trong họp với Bộ Tư Lệnh tiền phương. Sau khi thuyết
trình về tình hình chiến sự, Tướng Nghi ra lệnh khẩn cấp “rút quân”, ai
lo đơn vị đó… Sân bay bị pháo kích cả đêm hôm qua, máy bay phần bị tê
liệt, phần không có nhiên liệu, phần tải thương bay đi không thấy bay
về! Chỉ còn một chiếc máy bay đang chờ các vị chỉ huy của Bộ Tư Lệnh.
Nhưng các vị không ai chịu leo lên máy bay ngoại trừ Chuẫn Tướng Nhựt (
Sư đoàn 2) và Đại Tá Biếc (Liên Đoàn trưởng Biệt Động Quân). Hai ông
này gọi tôi: ” Huấn, bay về Sài Gòn đi, mặt trận vỡ rồi! Phi công nó sắp
cất cánh đó”
Nhưng tôi lắc đầu bỏ mặc hai ông trèo lên bay thẳng và quay lại ra
lịnh cho các Trưởng toán dẫn toán mình và cùng tôi với ban chỉ huy đoàn
chạy ra khỏi khu vực sân bay về hướng Du Long, băng vào rừng để tránh
đụng địch tìm đường ra mũi Cà Ná, nơi có Tàu đang cắm neo chờ tải quân
dân.
Tình hình hỗn loạn vô cùng, ai
theo cách nấy. Không còn hàng ngũ gì nữa, một số lính BĐQ và bộ binh đi
theo chúng tôi vì không có ai hướng đạo. Trong đêm tăm tối, chúng tôi
cắm cúi chạy thoát ra vòng đai sân bay chạy thục mạng về phía ngọn đồi
phía trước, khi lũi vào bụi, khi đi tìm đường mòn, băng hào, lội rạch để
chạy càng xa tốt, tránh tầm đạn pháo và đường cái càng tốt vì binh lính
VC đã đổ xô ra đầy các nơi, xe tăng và xe chiến xa của CS cũng rầm rộ
tiến vào phố chợ.
Trên đường đi gặp vài nhà dân
làng phơi áo quần chúng tôi đã ” mượn tạm” để thay đổi ra dạng dân sự.
Tối hôm đó, leo lên đến ngọn đồi trước mặt thì chỉ còn có 1 toán Lôi Hổ
theo tôi mà thôi khoảng chừng 6-7 anh em, có cả máy truyền tin nhưng gọi
không ai bắt, nói không ai nghe! Tôi lấy ống nhòm nhìn xuống sân bay và
khu trại đóng quân thì đã tràn ngập dày đặc Cộng quân như kiến rồi!
Thế là xong!
3/ Qua thanh lọc, vào trại tạm giam:
Hai ngày lặn lội trong rừng vừa đói vừa khát, chúng tôi chỉ còn
cách là chôn dấu súng và chạy lẫn vào đám dân quân tán loạn vào làng
chài dưới chân đồi.
Tại đây, Cộng Sàn đang dang
rộng vòng vây lùa tất cả đoàn người chạy loạn vào làng để thanh lọc, tất
cả dân quân đều bị bắt giữ và dẫn về khám chính Phan Rang cả hàng ngàn
người…
Hàng ngày, các xe cam nhông thả về từng đợt.. từng đợt, lính có, công chức, dân sự có… đủ các thành phần bị tình nghi.
Lại khai báo lý lịch, cấp bậc, chức vụ…
Kinh nghiệm được huấn luyện về “bảo mật và bảo an” là đừng bao giờ ”
nói thật. Nên, tại đây, tôi cũng khai y như lời khai khi vào làng là :
Thầy giáo, tên Bé và cũng dặn các Anh em đồng đội là “phải trước sau như
một, không đổi lời khai”.
Tôi cũng gặp lại một ít Sĩ quan
và Hạ sĩ quan thuộc cấp và binh sĩ của mình. Nhưng vẫn còn một số lớn
khác không biết thất lạc nơi nao hay đã chạy thoát rồi!?
Ấn tượng nhất là Trung Sĩ Đông, đã nhường thức ăn và cùng với “tà lọt” Trịnh Thiên chăm sóc tôi chu đáo lắm!
Nhưng cũng vì thế mà tôi bị kêu
lên gọi xuống thẩm tra nhiều lần. Ngay cả Đông cũng bị hạch hỏi là ”
phải ông này là Chỉ Huy không? Sao Anh kêu là “ông Thầy” và săn sóc,
vâng dạ ông ta?”
Đông khai là gặp lại thầy dạy học cũ nên quý mến và mừng vui thôi!
Ở đây cũng có 2 người Chuẫn Uý man khai bị phác giác. Riêng đơn vị
chúng tôi bảo vệ nhau một cách kín đáo và thành tín xứng danh nghĩa Lôi
Hổ của quân đội VNCH cho nên tôi được “an toàn trên xa lộ” không bị “lộ
hành tung”.
Xin cám ơn các đồng đội quý mến và can trường của tôi!
4/ Ra khám, vào tù:
Đợt này CS lọc ra hàng ngủ Sĩ
Quan cấp Tá thì đưa về trại giam Bác Ái ở Quãng Ngãi còn thì thả một số
thường dân địa phương và sau đó là chia ra làm nhiều đợt để đưa Hạ sĩ
quan, công chức, giáo sư, giáo viên đi vào các trại “cải tạo” dưới chân
đèo Du Long, cầu Tân Mỹ để HỌC TẬP. Như vậy, nhóm Anh em chúng tôi gồm
Thượng Sĩ Đông, Tr.Uý HN Thương (khai là Trung Sĩ), Trịnh Thiên và tôi
được về ở chung một trại gồm có 182 người bị lùa vào “trường học tập cải
tạo” cho đến 30/4/75, ngày DVM Tuyên bố đầu hàng giao miền Nam cho CS.
Hôm sau, trong không khí “phấn khởi hồ hởi” của tụi bán và cướp nước,
tụi nó đã gọi đủ 182 tên của trại viên ra thả cho về. Tôi là người được
gọi tên rốt cuối số 182.
Bốn người chúng tôi dốc hết
tiền túi còn lại đánh chén một bửa no nê rồi ra đường đón xe tải quá
giang về Sài Gòn tìm gia đình để lại chuẫn bị khăn gói tiền bạc đóng cho
10 ngày đi “tập Trung học tập cải tạo” mà thời gian 10 ngày đối với bản
thân tôi là bản án hơn 6 năm ở trại TÙ Tân Lập ở Hoàng Liên Sơn, Bắc
Việt.
Những tháng ngày TÙ tội trên
vùng núi sâu rừng rậm của cao nguyên Bắc Việt, không thể TẢ hết nỗi đau
thương, khốn khổ, tủi nhục dưới sự hành hạ vô nhân đạo của bè lũ CS. Bên
tôi nhiều bạn bè đã ngã quỵ vì thiếu ăn, thiếu mặc và bịnh hoạn vì
thiếu chữa chạy, thuốc men!
Đầu năm 1981, tôi được thả về
và bảy tháng sau thì bị bắt lại vì tội vượt biên và cũng với lời khai
man lý lịch “thầy giáo”, lại ở TÙ thêm 2 năm nữa ở khám Cần Thơ, vị chi
là hơn 8 năm trong ngục tù của CS.
5/ Cuối đời:
Năm 1988, gia đình chúng tôi qua New Zealand định Cư theo diện “bảo lãnh đoàn tụ gia đình” với các em trai của vợ.
Đã qua một đời và một thời
hiến thân trai đền nợ núi sông. Bây giờ tuổi đã trên 75, chân đã chồn,
gối đã mõi mà lòng THƯƠNG TIẾC “Quê Hương đã mất” thì không hề phai
nhạt….
LH-Tống Hồ Huấn & Diên Hồng